Trong suốt cuộc đời làm cách mạng đã từng xông pha nhiều trận đánh, nhiều lần bị địch tra tấn dã man, chị là nỗi kinh hoàng, làm thất đảo bát điên lũ giặc ở “ vành đai trắng” ba xã vùng cát Điện Bàn và nhiều địa phương lân cận. Chính tay chị đã bấm mìn giết chết bảy tên lính Mỹ hung bạo ở vùng bị chiếm, chỉ huy và bắn cháy nhiều xe bọc thép và quân sự Mỹ đi càn, hàng chục trận xáp chiến bắt Mỹ- ngụy phải đền nợ máu.
Với dáng người mảnh khảnh nhưng lại sống một cách anh dũng phi thường, vượt qua những nỗi đau khủng khiếp, chiến công và tên tuổi chị đã trở thành huyền thọai.
Trong quầy hàng nhỏ của chị, nơi mà chị Ba Én cho là “ được lao động, có dịp tự học và làm công tác xã hội ở địa phương…”chúng tôi đến thăm hỏi và mong muốn được biết thêm những gì đã đi vào huyền thoại, những tâm tư, chiêm nghiệm… từ cuộc đời chị, Chị thật bình dị, gần gũi, cởi mở mà sâu sắc khi tiếp chúng tôi…
Người thực hiện (NTH): Thưa chị, được biết chị tham gia cách mạng khi còn rất trẻ?
Nữ AHLLVT Đặng Thị Én (chị Ba Én): Sau chiến công oanh liệt của những Dũng sĩ Điện Ngọc ở giếng cát Nhà Nhì(26-4-1962), địch trở lại tăng cường đánh phá, bọn tề ngụy ra tay đàn áp, lùng sục tố cộng, bắn giết bừa bãi nhằm uy hiếp lực lượng ta. Trong đợt phát động diệt ác phá kèm do Thường vụ Huyện ủy Điện Bàn kết hợp cùng Đảng bộ xã Điện Ngọc (1963), tôi tình nguyện gia nhập lực lượng vũ trang xã, bấy giờ mới 18 tuổi. Vốn “ thấp bé nhẹ cân” nên các chú, các anh trong đội thấy tôi đen đúa mà rất ngại…Nhưng nài nỉ “ ổng” nhiều ngày rồi…cũng “xuôi”. Đến năm 1968, tôi chính thức là cán bộ, chiến sĩ vũ trang huyện tăng cường về ba xã vùng cát Điện Bàn. Những năm giặc Mỹ mở rộng vành đai nhằm bảo vệ và đề phòng ta bất ngờ đánh sâu vào thành phố Đà Nẵng, ba xã vùng cát Nam- Dương- Ngọc là trong số địa bàn vùng ven bị chúng tràn vào rồi dựng lên vô số đồn bót. Hàng ngày, chúng đánh xe bọc thép và các loại xe quân sự khác yểm trợ bộ binh lung sục, đốt phá, cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ, bắn giết người già, trẻ em…Trước những nỗi đau tang tóc của quê hương, như bao lớp thanh niên khác trên đất Điện Bàn và cả nước, chúng tôi quyết lên đường cầm súng. Quả thực, không khí lúc bấy giờ hừng hực khí thế chiến đấu và chiến thắng. Khi đất trời sặc mùi bom đạn thì chẳng còn biết sợ là gì nữa.
NTH: Vào một đêm tháng 4 năm 1966, cái đêm thật khủng khiếp và dẫn đến sự mất mát quá lớn trong cuộc đời chị. Bấy giờ, trong cơn “ thập tử nhất sinh”, nhưng chỉ ít ngày sau đó chị đã ngâm mình trong lửa cát để thực hiện một cuộc đánh mìn ở đồn Cồn Khe thật phi thường?
Chị Ba Én: Vâng! Đêm ấy…(nghẹn ngào hồi lâu. Đêm ấy, nhân chuyến đi công tác, chồng tôi ghé nhà thăm mẹ con. Lúc ấy tôi vừa sinh đôi (song trai) được ba ngày. Giặc đã thừa biết anh Huỳnh Mua-chồng tôi là “ Việt cộng thứ thiệt” nên chúng cố phục kích, bắt được. Trời vừa hừng sang, ngay trước mặt tôi, chúng treo ngược thân hình đầy máu của anh lên rồi vào nhà lấy liềm cắt lúa để xẻo tai, nạy nhổ răng. Dã man hơn, khi thấy anh còn thoi thóp thở, chúng dùng ngọn tre nhọn hoắc thọc ngay vào bụng rồi đâm ngược lên tới cổ mà moi gan, móc ruột anh. Chưa hết, chúng cầm tai, mũi vừa cắt của anh bê bết máu rồi xúm vào đè tôi xuống cậy miệng nhét vào. Mặc chúng nện bang súng tới tấp lên tôi, tôi vẫn cố hết sức cắn chặt môi lại, Càng cuồng điên hơn, chúng giựt mìn san bằng nhà cửa, túm luôn mẹ con tôi đi. Tại Cồn Chùa, mẹ con tôi bị trói chặt nhiều ngày giữa bãi cát trắng, dưới trời như thiêu như đốt. Sau đó, những đứa con tội nghiệp lần lượt chết trên tay tôi, trong cơn đau, đói khát khi chúng mới sáu ngày tuổi. Tất cả những đau thương, mất mát của làng quê, của họ hàng, của người thân, của đời mình cứ dồn nén quá mức trong tôi. Chắc từ đó mới bật ra sức mạnh căm thù đến thế. Cho đến bây giờ, chính tôi vẫn không tưởng nổi.
NTH: Bà con trong làng thường lui tới mua hàng quầy chị, cho biết: “ Nhiều lúc chị Ba ngồi lặng đi, thất thần và buồn ghê lắm!... ”. Những lúc như thế, phải chăng chị nghĩ về chồng, về con?
Chị Ba Én: Chồng và các con tôi luôn ở bên tôi, những lúc chỉ mơ mà như thật. Nhiều khi nhìn mái ấm nào đó hoặc nghe tiếng trẻ con khóc…, nỗi đau càng đau lắm chứ! Nhưng đó chỉ mới một phần nhỏ bé mà tôi đã đóng góp; đồng bào, đồng chí mới là vô kể.
Thú thật, tất cả họ, với tôi là hiện hữu? Hiện hữu trong suy nghĩ, trong cử chỉ, việc làm hằng ngày, trong nghỉ ngơi, vui chơi, thậm chí trong ăn uống…Lắm người nghĩ là tôi quá “ cổ hủ”, khắt khe với mình, nhưng không hẳn thế. Từ những gì đời tôi đã được chứng kiến trong chiến tranh thì không có cái giá nào sánh được, nói chi đến chuyện phai mờ. Tôi tự dặn lòng đừng để sống làm tổn thương đến linh hồn họ, đến lý tưởng mà cả cuộc đời mình phấn đấu theo đuổi.
NTH: Thuộc thế hệ đi trước, chị muốn nhắn nhủ điều gì với thế hệ trẻ Điện Bàn quê ta hôm nay?
Chị Ba Én: Chiến tranh là nỗi bất hạnh của loài người. Thế hệ chúng tôi, thời trẻ đã rơi vào bất hạnh đó, thiệt thòi nhiều thứ. Nhưng ai nấy đều có “ tuyên ngôn” cho riêng mình- tự rèn luyện, tự phấn đấu…Ngày nay, có đủ điều kiện rồi, trước nhu cầu thực tiễn của thời đại thì càng ra sức học tập, sáng tạo và không ngừng trao dồi đạo đức. Có những đóng góp thiết thực cho sự phát triển của huyện nhà, cho đất nước. Giữ vững truyền thống cha ông chúng ta và coi đó như chính báu vật cho mỗi người. Và, hãy sống cho thật cuộc đời của mình, đừng bao giờ lùi bước, mạnh dạn tiến về phía trước. Các bạn trẻ sẽ thành công.
NTH: Xin chân thành cảm ơn chị. Chúc chị dồi dào sức khỏe và mãi nêu cao tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ noi theo.