
Các Bằng Tổ quốc ghi công, Mẹ VNAH của gia đình cụ Nguyễn Văn Tới
Cụ Nguyễn Văn Tới (hay còn gọi là Nguyễn Văn Tương, gọi theo tên con trưởng), vợ là cụ bà Nguyễn Thị Giáp - mẹ Việt Nam anh hùng- ở làng Thanh Tú, xã Điện Thắng Nam, thị xã Điện Bàn, Quảng Nam. Thời chống Pháp, cụ Tới cùng gia đình hết lòng ủng hộ kháng chiến; cưu mang, đùm bọc chở che cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Noi gương cha, người con cả Nguyễn Văn Tương (Nguyễn Tương) sinh năm 1933 tham gia bộ đội huyện Điện Bàn. Năm 1954 anh tập kết ra miền Bắc và được cấp trên biên chế vào đơn vị Hải Quân đội tàu không số. Năm 1968, Nguyễn Văn Tương làm chính trị viên, thuyền phó 1 cùng 20 cán bộ chiến sĩ, do Nguyễn Phan Vinh, thuyền trưởng chỉ huy vận chuyển vũ khí từ Hải Phòng vào Nam. Tàu đến vùng biển Hòn Hèo, tỉnh Khánh Hòa bị địch phục kích. Nguyễn Văn Tương cùng đồng đội chiến đấu kiên cường đến hơi thở cuối cùng.
Sau năm 1954, luật 10/59 của Ngô Đình Diệm, cụ Tới thuộc diện có tên trong sổ đen của địch nên chúng thẳng tay hành hạ bằng nhiều thủ đoạn: sám hối, buộc ly khai cộng sản, nhưng cụ vẫn một lòng, một dạ tuyệt đối trung thành với cách mạng. Hai người con trai thứ của cụ là Nguyễn Văn Cay, sinh năm 1937 và Nguyễn Văn Gừng, sinh năm 1939 cùng người bác họ là Nguyễn Văn Quế tham gia cách mạng. Trước khi tòng quân, cả ba đều đổi tên: Quế đổi tên thành Quyết, Cay đổi thành tên Chiến, Gừng đổi tên thành Đấu tham gia bộ đội trực tiếp cầm súng chiến đấu. Ba tên ghép lại thành Quyết- Chiến- Đấu thể hiện ý chí và tình thần đấu tranh với quân thù.
Nguyễn Văn Gừng được cấp trên giao nhiệm vụ giữ chức vụ tiểu đoàn phó đặc công 91 Quân Khu 5. Năm 1966, trong trận công đồn Cồn Hữu thuộc huyện Hòa Vang, Đà Nẵng, anh đã ngã xuống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nguyễn Văn Cay, phó chỉ huy trưởng huyện đội Điện Bàn. Năm 1968, cũng trong trận công đồn Bình Long, thuộc xã Điện Phước đã anh dũng hy sinh.

Anh Nguyễn Văn Tỏi, thương binh 2/4 người con trai út cụ Nguyến Văn Tới
Năm 1964, nối gót các anh, người con trai út của cụ là Nguyễn Văn Tỏi, sinh năm 1949 tình nguyện tham gia bộ đội nhưng tuổi còn nhỏ nên các chú, các anh động viên về nhà. Năm 1966, Tỏi tòng quân Nguyên Văn Trỗi được biên chế bộ đội huyện Điện Bàn. Năm 1967 cấp trên chuyển anh vào đơn vị đặc công Biệt động Thành Lê Độ thành phố Đà Nẵng. Năm 1969, trong trận đánh vào Đài phát thanh Đà Nẵng, Tỏi bị thương và chuyển ra Miền Bắc an dưỡng, nay anh là thương binh 2/4.
Trong căn nhà cấp 4 đơn sơ,ngăn nắp ở đầu làng Thanh Tú, anh Tỏi bồi hồi, xúc động nhớ lại hồi ức về gia đình mình. Anh kể, “Tỏi không được may mắn như bao người khác, mồ côi mẹ từ thuở nằm nôi, khi vừa tròn 4 tháng tuổi, mẹ tôi lâm trọng bệnh qua đời. Cha tôi cảnh gà trống nuôi con và tham gia hoạt động cách mạng. Lên 9 lên 10 tuổi, tôi vừa chăn trâu vừa làm cảnh giới, thấy địch ở đâu là báo cho các chú, các anh để chủ động đối phó. Hồi ấy, trong nhà, ngoài vườn của cha tôi có 4 hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Nhà tôi là điểm dừng chân cũng là nơi cơ sở cách mạng họp bàn triển khai kế hoạch đấu tranh. Một ngày năm 1965, trong lúc chi bộ đang triển khai cuộc họp, địch phát hiện xả súng vào nhà, nhưng may mắn các chú, các anh trốn thoát. Cha tôi (cụ Tới) bị chúng bắn gãy tay. Năm 1966, giặc chiếm đóng tại Trảng Nhật, ngày đem bọn giặc vào làng tổ chức thanh trừng những gia đình tham gia cách mạng. Sống trong cảnh áp bức đoạ đày, cha tôi động viên mọi ngưòi với quyết tâm thực hiện “một tấc không đi, một ly không rời”, bám trụ giữ làng, đào hầm, nuôi dấu cán bộ và đội du kích.
Nỗi đau lớn nhất đối với gia đình tôi là chỉ trong vòng 2 năm (1966 và1968) gia đình tôi nhận 3 hung tin từ chiến trường gởi về. Đó là năm 1966, anh Gừng hy sinh. Năm 1968, anhTương tham gia vận chuyển vũ khí tàu không số bị địch phục kích anh dũng hy sinh tại Hòn Hèo, Khánh Hòa. Cách mấy tháng sau, anh Cay cũng hiên ngang ngã xuống tại đồn Bình Long. Còn tôi đang chiến đấu ngoài mặt trận. Ở quê nhà, chỉ còn cha tôi sống lặng lẽ với những tháng ngày vò võ. Năm 1992, sau cơn bạo bệnh, cha tôi qua đời...
Chiến tranh kết thúc, anh Tỏi trở về quê nhà, rồi lập gia đình, sớm hôm cận kề, chăm sóc cha già và hương khói cho các anh. Mặc dù là thương binh 2/4 nhưng anh vẫn ngày ngày cùng người bạn đời cần cù lao động vun đắp tổ ấm, nuôi dạy con cái nên người và thường xuyên nhắc nhở con cháu giữ gìn, phát huy ngọn lửa truyền thống cách mạng gia đình.