Những năm tháng không quên
Cô Phan Thị Năm (1950) tham gia làm du kích xã Điện Bình (nay là phường Điện Ngọc, Điện Bàn) từ năm 1968, đây là cũng là bước ngoặc đầu tiên để cô thôn nữ rời xa mái ấm gia đình hòa vào dòng chảy nóng hổi của thời đại. Nhanh nhẹn, tháo vát trong công việc cô nhanh chóng được cắt cử làm giao liên cho Tiểu đoàn Tên lửa 577 thuộc Mặt trận 4 Quảng – Đà. Đến năm 1973, cô Phan Thị Năm tiếp tục được đưa đi học 4 tháng y tá tại Trường Sơn, từ đó cô trở thành quân y phục vụ cho đến hết cuộc kháng chiến.
Trong cuộc đời làm quân y, cô Năm phải chứng kiến bao cảnh tượng đau lòng do bom đạn gây nên, đã có nhiều đồng đội hy sinh ngay trước mắt nhưng cô vẫn phải cứng cỏi vượt qua nổi sợ hãi. Cô nói: “Nhìn đồng đội mình lần lượt ra đi, buồn đó nhưng không một ai dám thể hiện. Bất cứ sự đau buồn nào cũng sẽ làm cho ý chí lung lay. Trong chiến đấu, tinh thần lung lay là điều tối kỵ”
Say sưa nghe cô kể chuyện, tôi không hay biết chú Phạm Đức Thăng (1945)-chồng cô Năm đã đến tự khi nào. Tôi mời chú cùng trò chuyện, người cựu chiến binh đã ngoài 60 với nụ cười hiền nhiệt tình tiếp chuyện.
Năm 19 tuổi, chú Thăng tham gia cách mạng, lúc bấy giờ hoạt động trong tiểu đoàn bộ binh R20. Năm 1967, sau khi trải qua 6 tháng học khóa đặc công, chú chuyển về công tác cho đơn vị đặc công V25 Quảng-Đà. Trong cuộc đời chinh chiến, có một kỷ niệm mà chú Thăng không thể nào quên là câu chuyện vác xác đồng đội đi bộ hơn 7km từ Hội An về Cẩm Thanh để chôn cất. “Chỉ lúc cấp bách buộc phải bỏ mặc đồng đội nằm lại, còn nếu đủ khả năng không ai có thể để anh em mình nằm đấy. Đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là lương tâm của mỗi người lính”-chú Thăng chia sẻ.
Tháng 8/1968, chú bị bắt ra tù Phú Quốc. Tại đây, giặc chia tù nhân ra nhiều phân khu để “trị”, mục đích chính vẫn là tẩy não quân ta, dụ dỗ ký lệnh chiêu hồi. Để giữ ý chí cũng như củng cố nòng cốt cách mạng trong tù, chú Thăng tập trung nhiều Đảng viên thành một hội hoạt động ngay trong lòng địch. Năm 1973 Hiệp định Paris ký kết, sau gần 5 năm chịu cảnh khổ lao chú Thăng vẫn còn sống trở về.
Năm 1978, chú Thăng cùng Đại đội thanh niên xung phong Điện Bàn sang Campuchia hỗ trợ cho nước bạn. Ròng rã 2 năm trời nơi chiến trường, năm 1980 chú trở về quê hương cùng cô xây dựng tổ ấm. Nhưng số phận vẫn chưa buông tha cho hai người lính, cậu con trai út (1982) bị nhiễm chất độc màu da cam-di họa đau đớn của chiến tranh mà những người trở về phải hứng chịu. Con trai cô chú sau nhiều năm vật vã với bệnh tật, anh mất vào năm 2014.
Ngày trở về từ khói lửa chiến tranh
Ngôi nhà nhỏ của hai người lính già yên bình và ấm áp. Trên tường chỉ có một tấm hình chụp chung với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và nhiều đồng chí khác vào năm 2014 nhân dịp chú Thăng được mời ra Thủ đô dự Hội thảo Ban tổ chức TW về hoạt động của Bí thư chi bộ trong tù. Cô Năm nói: “Những huân chương chiến công, giấy khen chiến sĩ giải phóng, chiến sĩ vẻ vang, dũng sĩ diệt Mỹ,… cô chú đều cất làm kỷ niệm. Đó là thành tích của quá khứ. Quan trọng là bây giờ, những người lính già như cô chú có thể làm gì để giúp ích cho xã hội, đó mới là thực tại…”
Kể ra mới thấy giá trị trong câu nói của cô Năm, bởi từ sau khi trở về từ chiến trường cả hai đều là những người có sức ảnh hưởng đối với các hoạt động đoàn thể tại địa phương. Cô Năm bắt đầu làm Chi ủy Chi hội Phụ nữ thôn Cẩm Sa vào năm 2005. Đến năm 2012 cô được bầu làm Chi hội trưởng Hội cựu chiến binh khối Cẩm Sa quản lí gần 54 hội viên. Suốt 8 năm liền được công nhận là Đảng viên xuất sắc, cô luôn là ngọn cờ tiên phong cho các hoạt động cựu chiến binh . Riêng chú Thăng, từ năm 1981 đến năm 1997 chú đảm đương vai trò là Bí thư Chi bộ thôn Cẩm Sa. Hơn 10 năm là Phó chủ tịch Mặt trận xã, hiện nay chú đang giữ chức Chủ tịch tù yêu nước phường Điện Nam Bắc. Vợ chồng cô chú dù trong vai trò là cán bộ địa phương hay là một công dân bình thường đều được mọi người hết mực kính trọng bởi sự gần gũi, dung dị và chuẩn mực cả trong lối sống lẫn công việc.
Cô Năm và chú Thăng là hai trong nhiều tấm gương tiêu biểu cho thế hệ trẻ noi theo. Nhiều năm bôn ba trên chiến trường, hai con người ấy không hờn trách chiến tranh, không tiếc nuối tuổi trẻ, vợ chồng cô Năm vẫn sống vui vẻ và tràn đầy sức sống. Đến cái tuổi nhẽ ra phải nghỉ ngơi vui vầy bên con cháu nhưng cống hiến của họ cho xã hội rất đáng ngưỡng mộ và trân trọng.
Tạm biệt hai người khi trời chiều đã đổ bóng, tôi chào ra về mà lòng vẫn không thôi cảm kích tình cảm của vợ chồng cô chú. Hy vọng với tâm hồn tươi trẻ, lạc quan cô Năm và chú Thăng sẽ tiếp tục chặng đường cống hiến sức mình cho xã hội, những thành quả mà cô chú đã gầy công dựng xây sẽ luôn được trân trọng, cả hôm nay và mai sau…