Nội dung chi tiết

Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri sau kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV
Tác giả: VP UBMTTQVN thị xã .Ngày đăng: 06/08/2021 .Lượt xem: 934 lượt. [In bài]
Sáng 03/8/2021, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thị xã phối hợp tổ chức Hội nghị tiếp xúc giữa cử tri với Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) khóa XV, nhiệm kỳ 2021 - 2026 đơn vị Quảng Nam bằng hình thức trực tuyến tại điểm cầu của thị xã và 20 điểm cầu xã, phường.

Qua tiếp xúc cử tri, Ủy ban MTTQ Việt Nam thị xã tổng hợp những khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị với Trung ương và tỉnh một số vấn đề như sau:

A. TỔNG HỢP NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC CỦA CÁC CƠ QUAN, ĐƠN VỊ KHI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH

I. Lĩnh vực Nội vụ:

1. Khó khăn, vướng mắc về chế độ chính sách cán bộ xã, thôn:

1.1 Chế độ chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã hiện nay rất thấp chỉ bằng 1 lần mức lương cơ sở nên không đảm bảo cuộc sống của cán bộ trong khi đó khối lượng công việc nhiều, nhiều cán bộ phải làm việc cả ngày (8 giờ lao động) và thứ Bảy, Chủ nhật mới đảm bảo giải quyết hết được khối lượng công việc tương đương với công chức cấp xã do đó đã ảnh hưởng nhiều đến tâm lý làm việc cũng như khó khăn cho các địa phương trong phân công nhiệm vụ và đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cán bộ.

Do đó kính đề nghị Bộ Nội vụ điều chỉnh tăng mức phụ cấp hằng tháng đối với đối tượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã hoặc điều chỉnh tăng biên chế cán bộ, công chức cấp xã; giảm hoặc xóa bỏ số lượng người hoạt động không chuyên trách đồng thời chuyển giao nhiệm vụ của đối tượng này sang cho cán bộ công chức xử lý.

1.2 Đối với chế độ chính sách ở thôn, tổ dân phố: Có sự không đồng nhất giữa phụ cấp của thôn loại I (có 350 hộ gia đình trở lên) và tổ dân phố loại I theo Thông tư 13/2019/TT-BNV của Bộ Nội vụ, nhiều tổ dân phố có địa bàn rộng, phức tạp, trọng điểm về ANTT, dân số đông nhưng có sự chênh lệch về mức phụ cấp dẫn đến nhiều cử tri kiến nghị đến HĐND, UBND thị xã.

Do đó kính đề nghị Bộ Nội vụ điều chỉnh Thông tư 13/2019/TT-BNV của Bộ Nội vụ liên quan đến việc thực hiện mức khoán phụ cấp ở những tổ dân phố có từ 550 hộ gia đình trở lên tương tự với các thôn có 350 hộ trở lên (đều thuộc các thôn, tổ dân phố loại I).

2/  Đề nghị nâng mức hỗ trợ quy định tại Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15.6.2016 của Chính phủ đối với cán bộ cấp xã nghỉ việc theo Chỉ thị 79/CT-UB Chỉ thị 79/CT-UB này 12.11.1983 của UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

Trong lịch sử xây dựng và phát triển của đất nước nói chung và tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng nói riêng  có sự đóng góp công sức không nhỏ của đội ngũ cán bộ cấp xã nghỉ việc theo Chỉ thị 79/CT-UB ngày 12.11.1983 của UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ). Đây là những người vừa bước ra chiến tranh đã hăng hái tham gia công cuộc kiến thiết quê hương rồi nghỉ việc nhưng hưởng mức trợ cấp hằng tháng thấp, hiện nay đã lớn tuổi, cuộc sống khó khăn, bệnh tật. Theo thống kê, toàn tỉnh hiện còn hơn 2.460 người đang hưởng chế độ cán bộ cấp xã nghỉ việc theo Chỉ thị 79/CT-UB; mức trợ cấp thực hiện theo quy định tại Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15.6.2016 của Chính phủ. Mặc dù Chính phủ đã điều chỉnh tăng mức phụ cấp hằng tháng, tuy nhiên thực tế vẫn còn rất thấp so với mức sống hiện nay. Mặt khác, hầu hết số cán bộ này đã già yếu, bệnh tật, không còn khả năng lao động, không có nguồn thu nhập khác, đời sống gặp nhiều khó khăn.

Đề nghị cấp thẩm quyền xem xét điều chỉnh, nâng mức trợ cấp cho nhóm đối tượng này, đảm bảo mức sống tốt hơn.

II. Lĩnh vực Lao động – Thương binh và Xã hội:

1. Về chế độ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học:

1.1 Theo quy định tại khoản 1, điều 8 Thông tư liên tịch số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 30/6/2016 quy định: “Bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính hoặc bán cấp tính (Acute, subacute peripheral neuropathy) quy định tại Khoản 10 Điều 7 Thông tư này chỉ áp dụng với đối tượng có giấy tờ có giá trị pháp lý được xác lập trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 ghi nhận bị mắc bệnh thuộc nhóm bệnh thần kinh ngoại biên”.

Các đối tượng hầu như không có giấy tờ này vì do thời gian quá lâu, điều kiện lúc bấy giờ khó khăn nên đối tượng không còn giấy tờ điều trị bệnh. Nên không thể xác lập hồ sơ đề nghị hưởng chế độ.

1.2 Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 27 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ LĐ-TB&XH quy định: “Trường hợp không có vợ (chồng), có vợ (chồng) nhưng không có con hoặc đã có con trước khi tham gia kháng chiến, sau khi trở về không sinh thêm con, nay đã hết tuổi lao động (nữ đủ 55 tuổi, nam đủ 60 tuổi)” thì được giải quyết chế độ trợ cấp Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học hằng tháng.

Tuy nhiên trên thực tế nhiều trường hợp thuộc đối tượng nêu trên đã xin con nuôi để sau này nương tựa về tuổi già có người chăm sóc, phụng dưỡng nhưng trong các loại giấy tờ như giấy khai sinh, hộ khẩu… thể hiện là con (không ghi rõ con đẻ hoặc con nuôi) thì không được giải quyết.

Kính đề nghị cấp có thẩm quyền có hướng dẫn cụ thể để các trường hợp này được hưởng trợ cấp (như bổ sung biên bản tộc họ, biên bản họp quân dân chính thôn xác định khẳng định người con đó là con nuôi không phải con đẻ của đối tượng và chịu trách nhiệm trước pháp luật để đối tượng tham gia kháng chiến nhưng không sinh con được hưởng chế độ trợ cấp của Nhà nước)

2. Về thủ tục di chuyển hồ sơ Bà mẹ VNAH đã từ trần đi các tỉnh, TP khác:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ LĐ-TB&XH quy định thì thủ tục di chuyển hồ sơ đối với Bà mẹ VNAH đã từ trần đi các tỉnh, TP khác không thực hiện là bất hợp lý vì thân nhân của các Mẹ ở địa phương không còn ai thờ cúng tại địa phương nên muốn chuyển đến đến nơi cứ trú (địa phương khác ngoài tỉnh) để thờ cúng nhưng không được. Trường hợp đặc biệt thì báo cáo Sở xem xét giải quyết. Tuy nhiên, theo thực tế thì các thân nhân của Mẹ không còn ai ở địa phương nơi quản lý hồ sơ thì việc thờ cúng rất khó. Do đó, việc di chuyển hồ sơ thờ cúng Mẹ là phù hợp với nguyện vọng của thân nhân của Mẹ và không ảnh hưởng đến việc quản lý hồ sơ.

Kính đề nghị cấp thẩm quyền xem xét, điều chỉnh cho người thờ cúng Mẹ VNAH được chuyển hồ sơ về nơi cư trú (ngoài tỉnh) để thờ cúng theo nguyện vọng

3. Về giải quyết trợ cấp 1 lần bằng 3 tháng trợ cấp khi người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi từ trần:

Hiện nay theo quy định đối tượng đang hưởng trợ cấp hàng tháng và thân nhân liệt sỹ đang hưởng trợ cấp hàng tháng chết thì người hoặc tổ chức thực hiện mai táng được nhận mai táng phí và thân nhân được hưởng một khoản trợ cấp.

Theo quy định trên thì chỉ thân nhân mới được hưởng một khoản trợ cấp (3 tháng lương), còn người thực hiện mai táng (không phải là thân nhân) không được nhận một khoản trợ cấp (3 tháng lương).

Đề nghị sửa đổi cho người thực hiện mai táng nhận được một khoản trợ cấp (3 tháng lương). Vì: người thực hiện mai táng này cũng là người thân của đối tượng (con dâu, con rễ, cháu nội, cháu ngoại, anh chị em ruột... Là những người thân còn lại trực tiếp chăm sóc phụng dưỡng đối tượng khi còn sống và lúc đau ốm, bệnh tật…) để họ có thêm phần kinh phí để lo việc mai táng, tuần tự…

4. Về hướng dẫn thủ tục đề nghị công nhận liệt sỹ:

Trong những năm trước đây, việc giải quyết chế độ liệt sỹ thực hiện theo Nghị định số 28-CP ngày 29/4/1995; Thông tư số 22-LĐTBXH/TT ngày 29/8/1995 hướng dẫn về thủ tục và quản lý hồ sơ người có công với cách mạng và Thông tư liên tịch số 16/TTLT-BLĐTBXH-BQP-BCA ngày 25/11/1998 về việc hướng dẫn một số điểm về công nhận và giải quyết quyền lợi đối với liệt sỹ và gia đình liệt sỹ; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh. Việc thực hiện thủ tục hồ sơ đề nghị công nhận liệt sỹ có 2 người xác nhận được quy định tại điểm 1, 2, Mục II của Thông tư liên tịch số 16/TTLT – BLĐTBXH-BQP-BCA ngày 25/11/1998 nêu trên.

Nhưng hiện nay việc xác lập hồ sơ đề nghị công nhận liệt sỹ căn cứ điểm 11 Điều 4 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân và Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP ngày 22/10/2013 của liên Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và Bộ Quốc phòng hướng dẫn xác nhận liệt sỹ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy.

Thủ tục xác lập đề nghị công nhận liệt sỹ theo diện 02 người xác nhận thì hiện nay chưa có hướng dẫn giải quyết. Thị xã Điện Bàn hiện nay qua rà soát sơ bộ có gần 120 trường hợp đề nghị xác nhận liệt sỹ theo diện 02 người xác nhận.

Qua nhiều lần họp Hội đồng nhân dân, tiếp xác cử tri, nhiều cử tri có ý kiến về trường hợp này và đề nghị cấp có thẩm quyền sớm có hướng dẫn thủ tục hồ sơ đề nghị công nhận liệt sỹ đối với những trường hợp theo diện 02 người xác nhận. đảm bảo giải quyết tốt các chế độ chính sách cho người có công cách mạng.

Kính đề nghị cấp thẩm quyền xem xét có văn bản hướng dẫn cụ thể việc triển khai thực hiện nội dung này.

III. Lĩnh vực Tài nguyên – Môi trường:

1. Vướng mắc trong việc xác định diện tích đất ở đối với thửa đất được cấp GCNQSDĐ có ký hiệu là đất chữ “T”:

Qua thời gian triển khai thực hiện các quy định của Luật Đất đai 2013, các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn của UBND tỉnh Quảng Nam, UBND thị xã Điện Bàn nhận thấy những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng pháp luật đối với việc xác định diện tích đất ở đối với thửa đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất thổ cư có ký hiệu chữ “T” theo hướng dẫn của Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh.

Do bất cập này dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện ngày càng tăng và làm trì trệ trong công tác bồi thường, hỗ trợ, GPMB tái định cư. Điều này cũng dẫn đến việc UBND thị xã Điện Bàn không thể chấp hành và thi hành các bản án liên quan đến nội dung này vì trái với các quy định được UBND tỉnh Quảng Nam hướng dẫn tại Công văn số 5219/UBND-KTN ngày 21/10/2016. Vướng mắc cụ thể, UBND thị xã Điện Bàn đã có Tờ trình số 294/TTr-UBND ngày 20/8/2020. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh Quảng Nam cũng đã chủ trì, làm việc với các cơ quan tư pháp (TAND, VKSND) nhưng vẫn không đi đến sự thống nhất chung giữa cơ quan Hành pháp và Tư pháp.

Kiến nghị cấp thẩm quyền sớm có phương hướng giải quyết, điều chỉnh (sửa đổi Luật Đất đai và những văn bản pháp luật có liên quan) phù hợp nhằm đảm bảo theo các quy định của pháp luật, cũng như thực tế tại địa phương; đảm bảo quyền sử dụng đất của tổ chức, công dân theo Luật Đất đai; đảm bảo thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về việc công nhận đất ở cho cá nhân, hộ gia đình được thống nhất; và nhất là việc triển khai, thi hành các bản án mà TAND các cấp đã tuyên.

2. Vướng mắc trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với trường hợp UBND các xã giao đất trái thẩm quyền:

Đối với các trường hợp UBND cấp xã giao đất trái thẩm quyền, việc cấp giấy chứng nhận QSD đất được Chính phủ quy định tại Điều 23, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 và Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 về sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai (tại Điều 19 quy định bổ sung khoản 6 vào Điều 23, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP). Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp giao đất trái thẩm quyền từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014 tại khoản 2, Điều 18, Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT sửa đổi, bổ sung khoản 5, Điều 24, Thông tư số 23/TTBTNMT, cụ thể như sau:

a) Làm rõ và xử lý trách nhiệm đối với người giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

b) Xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể và chỉ cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; trường hợp giao đất làm nhà ở thì chỉ cấp Giấy chứng nhận đối với hộ gia đình, cá nhân không có đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở được giao không đúng thẩm quyền.

Tuy nhiên, khi lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các địa phương đều không có văn bản xử lý trách nhiệm đối với người giao đất không đúng thẩm quyền; người sử dụng đất không sử dụng đất hoặc sử dụng đất vào mục đích không được giao nên các trường hợp đều không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

* Kiến nghị: cấp thẩm quyền xem xét điều chỉnh các quy định có liên quan theo hướng cho phép thực hiện việc giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân mà không cần văn bản xử lý trách nhiệm đối với người giao đất không đúng thẩm quyền (chỉ xử lý trách nhiệm đối với những cán bộ hiện còn đang công tác).

3. Vướng mắc trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01/7/2014:

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01/7/2014 đã được quy định tại Điều 22, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và các trường hợp này được xem xét cấp giấy theo quy định tại Điều 20, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP nhưng phải được UBND cấp tỉnh chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất.

Ngoài ra, theo hướng dẫn của Sở TN-MT tỉnh tại Công văn số 1352/STNMT-VPĐK ngày 10/9/2015 về việc phúc đáp Công văn số 921/CV-TNMT ngày 20/7/2015 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Tam Kỳ, cụ thể: “Theo quy định trên người sử dụng đất có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 100, 101, 102 thì được cấp giấy chứng nhận. Việc xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai tại quy định trên phải có văn bản xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại các Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, cụ thể: Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 và Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 (đối với trường hợp sử dụng đất trước Luật Đất đai 2013); Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ (đối với trường hợp sử dụng đất kể từ ngày 01/7/2014)”.

Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác quản lý đất đai trên địa bàn thị xã, đa số các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất như trên đều có vi phạm pháp luật đất đai như: Lấn, chiếm đất chưa sử dụng, đất do UBND xã, phường quản lý hoặc tự ý chuyển mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp phải xin phép theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; chuyển nhượng đất nông nghiệp không đúng quy định rồi tự ý chuyển mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp phải xin phép theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng không có văn bản xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan có thẩm quyền theo quy định nên UBND thị xã không thể cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trường hợp trên.

* Kiến nghị: cấp thẩm quyền xem xét cho chủ trương tổ chức thực hiện rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không cần văn bản xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan có thẩm quyền theo quy định.

IV/ Về lĩnh vực Tài chính - Ngân sách-Đầu tư:

1. Bất cập trong việc tính vượt thu ngân sách và trích CCTL từ nguồn kết dư ngân sách

Theo quy định tại Điều 37, Luật NSNN và Khoản 1, Công văn hướng dẫn số 14957/BTC-NSNN ngày 04/12/2020 của Bộ Tài chính thì Kết dư ngân sách địa phương năm trước là khoản thu ngân sách địa phương năm nay được đưa vào cân đối ngân sách để tính vượt thu và trích CCTL của năm nay, nội dung này bất cập và không phù hợp, cụ thể như sau:

Thu Kết dư ngân sách năm trước là khoản thu ngân sách năm nay hoàn toàn hợp lý, tuy nhiên việc đưa khoản thu kết dư ngân sách năm trước vào cân đối ngân sách để tính vượt thu và trích CCTL năm nay là hoàn toàn không hợp lý, bởi lẽ:

+ Thứ nhất: Vượt thu ngân sách là phần chênh lệch giữa số thực hiện so với dự toán được giao đầu năm, mà dự toán được giao đầu năm không giao khoản thu kết dư năm trước.

+ Thứ hai: Kết dư ngân sách năm trước thực chất là các khoản thu ngân sách của năm trước chi không hết còn lại, các khoản thu này đã được đưa vào cân đối ngân sách để tính vượt thu và trích CCTL của năm trước, nếu lại tiếp tục đưa và cân đối ngân sách để tính vượt thu và trích CCTL năm nay, như vậy là một khoản thu ngân sách tính vượt thu và trích CCTL 02 lần.

Từ những bất cấp nêu trên, kiến nghị Bộ Tài chính xem xét không đưa khoản thu kết dư ngân sách năm trước vào cân đối để tính vượt thu và trích CCTL năm nay.

2. Theo Điểm 2 Điều 17 Luật Ngân Sách và Điểm 2 Điều 43 Luật Ngân sách thì Việc xây dựng Kế hoạch tài chính 05 năm và Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm là cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn ngân sách nhà nước, Tuy nhiên hiện nay theo quy định của Luật Ngân sách thì chỉ có Cấp Trung ương và Cấp tỉnh thự hiện xây dựng Kế hoạch tài chính 05 năm và Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm, Ở Cấp huyện, cấp xã thì chưa được quy định cụ thể. Do vậy Đối với việc dự báo nguồn vốn đầu tư để đưa vào cân đối trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn ở cấp huyện, cấp xã còn rất nhiều khó khăn do chưa xây dựng Kế hoạch tài chính 05 năm và Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm.

Kính đề nghị cấp thẩm quyền xem xét điều chỉnh để cấp huyện, xã có cơ sở thực hiện.

V/ Về lĩnh vực Tư pháp:

1. Hiện nay tình hình mua bán, tàng trữ, sử dụng súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ trên địa bàn thị xã Điện Bàn nói riêng diễn biến phức tạp. Việc mua bán các loại súng này đều thông qua mạng xã hội. Các cơ quan chức năng rất khó khăn trong việc đấu tranh đối với các hành vi này. Thực tế cho thấy mức độ nguy hiểm của các loại súng săn, súng tự chế, súng thể thao không khác gì vũ khí quân dụng, đã có nhiều trường hợp việc sử dụng trong nhân dân gây ra hậu quả chết người. Mặc khác nếu không có biện pháp quản lý chặc chẽ để các băng nhóm tội phạm hoặc các tổ chức tội phạm mua bán, tàng trữ, sử dụng để thực hiện các tội phạm chống phá Nhà nước hoặc sử dụng để thực hiện các tội phạm khác thì sẽ rất nguy hiểm.

Do đó kiến nghị cần sửa đổi Điều 306 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi tại Khoản 108, Điều 1, Luật sửa đổi Bổ sung Luật HÌnh sự năm 2017) theo hướng cấu thành cơ bản không cần các đối tượng đã bị xử lý hành chính hoặc bị kết án về hành vi này mà chưa được xóa án tích.

2. Thực tiễn cho thấy hoạt động tín dụng đen là môi trường phát sinh nhiều tội phạm đi kèm như cố ý gây thương tích, bắt giữ người trái pháp luật, cưỡng đoạt tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản…Đa phần các đối tượng cho vay là các đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự hoạt động có tính chất băng nhóm nên gây tâm lý lo sợ cho người bị hại. Người bị hại sợ bị trả thù nên không dám tố cáo. Tuy nhiên hiện nay mức hình phạt đối tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự (Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015) còn nhẹ chưa tương xứng.

Do đó kính đề nghị Quốc hội cần sửa đổi Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó cần nâng cao mức hình phạt đối với loại tội phạm này theo hướng tỷ lệ thuận với số tiền thu lợi bất chính từ hoạt động cho vay nặng lãi.

3. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt trong một số tội phạm xâm phạm quyền sở hữu; xâm phạm trật tự công cộng. Tuy nhiên để hiểu như thế nào là gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì hiện nay chưa có hướng dẫn gây khó khăn cho việc xử lý các hành vi trên. Thực tiễn trong thời gian qua xảy ra một số vụ án xét về tính chất có ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, nhưng do còn nhiều quan điểm khác nhau nên việc áp dụng không thống nhất.

Kiến nghị cấp thẩm quyền xem xét có hướng dẫn cụ thể.

B. TỔNG HỢP Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI VÀ NHÂN DÂN:

1/ Hiện nay tình trạng kinh doanh buôn bán thuốc Bảo vệ thực vật giả tràn lan trên thị trường (người dân phun 1 mùa, 3 đến 4 lần vẫn không chết cỏ) đề nghị Quốc hội tăng cường biện pháp kiểm tra, xử lý.

2/ Cử tri phường Điện Ngọc: Dự án Làng Đại học đến nay đã quy hoạch được hơn 24 năm, nhân dân không được hưởng các quyền liên quan như chuyển nhượng, xây dựng nhà ở… đường giao thông xuống cấp đi lại khó khăn. Đề nghị các cấp sớm quan tâm giải quyết để Nhân dân ổn định cuộc sống.

3/ Hiện nay, nguồn kinh phí hỗ trợ cho việc xây dựng các KDC Nông thôn mới kiểu mẫu còn quá hạn hẹp, nên việc đầu tư, xây dựng dàng trãi cho 10 tiêu chí không đảm bảo, tính bền vững không cao. Đề nghị Nhà nước có hướng tăng nguồn vốn hỗ trợ để việc xây dựng các KDC Nông thôn mới kiểu mẫu được chất lượng hơn, các KDC có thêm nguồn kinh phí để đầu tư các tiêu chí bền vững hơn.

4/ Hiện nay ở một số địa phương UBND xã thường xuyên cấp bù tiền thủy lợi hóa đất màu với số tiền lớn, gây khó khăn cho ngân sách địa phương (do giá điện tăng so với nhiều năm trước), kiến nghị các cấp điều chỉnh mức hỗ trợ cho phù hợp với tình hình hiện nay.

[Trở về]
Các tin mới hơn:
Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam phường Điện An lần thứ X, nhiệm kỳ 2024 – 2029
Phường Điện Nam Trung tổ chức thành công Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2024 - 2029
UBMTTQVN phường Điện Phương với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”
Tuyên truyền các luật, nghị quyết mới được Quốc hội khóa XV, HĐND tỉnh, HĐND thị xã thông qua tại các kỳ họp
Điện Phước tổ chức gặp mặt đầu năm và hội nghị ký kết giao ước thi đua năm 2024.
Các khu dân cư ở phường Điện Ngọc hoàn thành Hội nghị Ban Công tác Mặt trận nhiệm kỳ 2021-2024
Thông tin các Nghị quyết được thông qua tại kỳ họp thứ 16, HĐND tỉnh khóa X
Mặt trận Điện Phương với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
Điện Phương tổ chức đêm văn nghệ tiếng hát đại đoàn kết năm 2023
Điện Phương: tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định 217-QĐ/TW và Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị
    
1   2   3   4   5  
    
Các tin cũ hơn:
Mặt trận xã Điện Tiến tiếp tục phát động Nhân dân duy trì phong trào “mỗi tháng dành 1 ngày vì môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp”
Ủy ban MTTQ Việt Nam xã Điện Phương tổ chức hội nghị lần thứ 9, khóa IX nhiệm kỳ 2019-2024
Điện Phước vận động, ủng hộ bà con đồng hương tại thành phố Hồ Chí Minh gặp khó khăn do dịch bệnh covid-19
Tăng cường tuyên truyền, vận động trong công tác phòng chống dịch bệnh covid-19
Kêu gọi ủng hộ công tác phòng, chống dịch bệnh covid-19
Điện Nam Bắc tổ chức Hội nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam phường lần thứ X khóa XIII, nhiệm kỳ 2021-2026
Ủy ban MTTQ Việt Nam xã Điện Phước tổ chức hội nghị lần thứ 10, khóa IX nhiệm kỳ 2019-2024
Ủng hộ công tác phòng chống covid-19 tính đến 17/6/2021
Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri vận động bầu cử đại biểu HĐND thị xã khóa XII, nhiệm kỳ 2021-2026
Điện Bàn tổ chức trực tuyến Lễ phát động đợt cao điểm quyên góp ủng hộ phòng, chống dịch bệnh Covid-19
    
1   2   3   4   5  
    

Liên kết website

Lượt truy cập

Tổng số lượt truy cập
Lượt trong năm