Trở lại hàng trăm năm trước, vùng đất Điện Bàn xưa thuộc đất Việt Thường Thị, chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa Sa Huỳnh. Đầu thế kỷ thứ XIV, bấy giờ vùng đất Điện Bàn nằm trên cương vực của vương quốc Chiêm Thành, vua Chiêm Thành là Chế Mân đã cắt hai châu Ô và Lý dâng cho Đại Việt thông qua cuộc hôn nhân chính trị giữa ông và Huyền Trân công chúa với lời hứa của Thượng hoàng Trần Nhân Tông. Trước đó Đại Việt và Chăm-pa đã có cuộc xung đột kéo dài hàng trăm năm, vậy nên sự kiện lịch sử này có thể nói là bước hòa hảo tạm thời giữa đôi bên và cũng là sự kiện đánh dấu vùng đất Điện Bàn chính thức thuộc về Đại Việt.
Năm 1307, Châu Ô, châu Lý được đổi tên thành châu Thuận và châu Hóa, vua Đại Việt bấy giờ là Trần Anh Tông sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị, Điện Bàn thuộc châu Hóa cương vực gồm huyện Phú Lộc, huyện Phú Vang (thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế) và đến bờ Bắc sông Thu Bồn. Tuy vùng đất thuộc Đại Việt song từ đây trở về cuối thế kỷ XIV, vùng đất “sính lễ” này chưa lần nào được nhà Trần thực sự nắm giữ, liên tiếp xảy ra các cuộc chinh chiến liên miên giữa các vua của Chăm-pa và vua nhà Trần.
Phần đất của châu Ô, Lý của Chiêm Thành trên danh nghĩa thuộc về Đại Việt nhưng do cách trở về địa lý, đặc biệt là đèo Hải Vân nên chính quyền nhà Trần cũng chưa vươn tới được nơi đây cai trị, một phần vì người Chăm chưa chịu khuất phục. Năm 1326, vua Trần Minh Tông mở cuộc Chiêm phạt bất thành, Chế A Nan đã giành lại hai châu Ô, Lý.
Từ đó trở đi, diễn ra nhiều trận giao tranh khốc liệt giữa hai bên, có lúc lãnh thổ của người Chiêm còn vươn đến tận Nghệ An. Sau cái chết của vua Chiêm là Chế Bồng Nga, tướng Chiêm là La Khải đã tự xưng vương tự nguyện trả lại cho Đại Việt phần đất từ Đèo Ngang trở vào đến đèo Hải Vân, vùng đất Điện Bàn vẫn thuộc phần đất của người Chiêm.
Bước sang thế kỷ XV, nhà Hồ lên ngôi thay nhà Trần, tuy chỉ có 7 năm trị vì (1400-1407) song những cải cách của Hồ Quý Ly khi còn làm quan dưới triều Trần và sau khi lên ngôi được đưa vào lịch sử như một dấu ấn chói lọi về tư duy đổi mới chiến lược về nhiều lĩnh vực. Công lao to lớn của nhà Hồ đó là chiến thắng Chiêm Thành vào năm 1402 do Hồ Hán Thương (con trai Hồ Quý Ly, vua nhà Hồ bấy giờ) dẫn quân, nối tiếp lại hành trình Nam tiến của Đại Việt. Với chiến thắng này, Chiêm Thành phải dâng phần đất Chiêm Động (tức là đất từ bờ nam sông Thu Bồn đến giáp Quảng Ngãi ngày nay) và vùng Cổ Lũy (Quảng Ngãi ngày nay). Nhà Hồ đã chia Chiêm Động và Cổ Lũy thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt lộ Thăng Hoa tức phần đất của Chiêm Động để thống lĩnh, điều Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ.
Vậy Điện Bàn nằm ở đâu? Về giai đoạn này, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1402) Hán Thương cho đắp sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hóa Châu. Dọc đường đặt phố xá và trạm truyền thư, gọi là đường thiên lý”, suy luận ra khi Hồ Hán Thương vây đánh Chiêm Thành thì đến địa phận này không gặp sự kháng cự nào của nhà Chiêm, thế nên Điện Bàn đã thuộc nhà Hồ vào thời gian này tức nằm trong châu Hóa, không thuộc phần đất Chiêm Động. Cần nói thêm rằng, sau khi nhà Hồ thất bại trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh, nước ta bị nhà Minh đô hộ từ năm 1407 đến 1427 thì vùng đất phía nam sông Thu Bồn bị người Chăm trở lại chiếm cứ, Điện Bàn vẫn là vùng đất thuộc Đại Việt.
Năm 1427, khởi nghĩa Lam Sơn chống quân xâm lược nhà Minh do Lê Lợi phất cờ dành thắng lợi, năm 1428 lập ra nhà Lê (lịch sử dân tộc gọi là hậu Lê hay Lê sơ để phân biệt thời kỳ nhà tiền Lê trước đây của Lê Đại Hành). Vào thời kỳ này, năm 1435 lần đầu tiên địa danh Điện Bàn được Nguyễn Trãi ghi vào “Dư địa chí”, bấy giờ thuộc phủ Triệu Phong, lộ Thuận Hóa.
Năm 1471 diễn ra một sự kiện quan trọng, vua Lê Thánh Tông thân chinh tiến vào đất Chiêm Thành nhằm lấy lại vùng đất trước kia của Đại Việt. Cuộc chinh phạt thắng lợi bằng chiến thắng Trà Bàn, không những lấy lại phần đất của Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa mà còn mở rộng đến miền Vijaya (tức thuộc Bình Định ngày nay). Năm 1471 cũng đánh dấu sự ra đời của danh xưng Quảng Nam khi nhà vua cho lập thừa tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ ứng với 9 huyện, phủ Thăng Hoa, phủ Tư Nghĩa và phủ Hoài Nhơn (tương ứng với phần đất từ bờ nam sông Thu Bồn đến Bình Định). Song, Điện Bàn vẫn là một huyện thuộc phủ Triệu Phong của thừa tuyên Thuận Hóa, vùng đất này vẫn chưa thuộc Quảng Nam. Đến năm 1520, vua Lê Chiêu Tông đổi Quảng Nam thừa tuyên thành trấn Quảng Nam, Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong, trấn Thuận Hóa.
Bước sang thế kỷ XVI, lịch sử đất nước vào giai đoạn thăng trầm, nước ta bị chia cắt trong thời kỳ Nam Bắc triều, sau đó là thời kỳ phân tranh Đàng Trong – Đàng Ngoài. Đến giữa thế kỷ XVI, Nguyễn Hoàng xin vào giữ trấn Thuận Hóa, bắt đầu thời kỳ dấy nghiệp của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng đổi thành dinh Quảng Nam. Đến tận năm 1604, thì huyện Điện Bàn được tách khỏi phủ Triệu Phong, thăng lên làm phủ, sáp nhập vào dinh Quảng Nam, chính thức là vùng đất thuộc Quảng Nam cho đến tận ngày nay. Phủ Điện Bàn bấy giờ gồm 5 huyện: Tân Phước, An Nông, Hòa Vinh, Diên Khánh, Phước Châu (tức phần đất từ bắc sông Thu Bồn đến đèo Hải Vân). Dinh trấn Quảng Nam được đóng tại xã Thanh Chiêm, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (hay còn gọi là dinh trấn Thanh Chiêm nay thuộc xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn) do con các con trai của chúa Nguyễn lần lượt trấn thủ như: Nguyễn Phước Nguyên, Nguyễn Phước Lan… Đây cũng là định lệ của Nguyễn Hoàng: lấy dinh trấn Thanh Chiêm làm nơi thực tập thí điểm của các chúa tương lai. Với việc thành lập dinh trấn Thanh Chiêm, vị thế của mảnh đất Điện Bàn đã được nâng cao trong quá trình lịch sử mở nước của dân tộc.

Đình làng Thanh Chiêm
Năm 1777, sau khi đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, sai người ra Thăng Long xin chúa Trịnh cho mình cai trị đất Quảng Nam. Từ đây đến đầu thế kỷ 19, vùng đất Điện Bàn do nhà Tây Sơn nắm giữ.
Giữa năm 1802, trước sự tấn công của Nguyễn Ánh, nhà Tây Sơn sụp đổ, bắt đầu lập nên nhà Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta. Năm 1803, vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) lập dinh Quảng Nam gồm hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn, phủ Điện Bàn gồm 2 huyện là Diên Phước và Hòa Vang. Lần lượt từ năm 1806, 1827, 1832 Quảng Nam được đổi thành Trực Lệ Quảng Nam, trấn Quảng Nam, tỉnh Quảng Nam. Năm 1883 tỉnh đường Quảng Nam được đặt tại Điện Bàn (tại làng La Qua nay thuộc Điện Minh và Vĩnh Điện).
Năm 1836 phủ Điện Bàn có thêm huyện Duy Xuyên, năm 1899 có thêm huyện Đại Lộc. Sang đầu thế kỷ XX, Điện Bàn chỉ gồm phần đất của huyện Diên Phước, gồm 9 tổng: An Lưu, Thanh Châu, Đa Hòa, An Thái, Phú Triêm, Hạ Nông, Phú Khương, Thanh Quýt, An Nhơn và Hội An.
Năm 1915, dưới thời thuộc Pháp tỉnh Quảng Nam có 3 phủ: Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kỳ, 4 huyện: Duy Xuyên, Đại Lộc, Hòa Vang, Quế Sơn.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đơn vị hành chính cấp phủ được thống nhất lại thành huyện, cấp tổng bị xóa bỏ. Đầu năm 1946, huyện Điện Bàn từ 115 làng cũ sát nhập lại thành 37 xã mới. Tháng 11 năm 1948, thực hiện chủ trương của Chính Phủ, Điện Bàn tổ chức hợp xã lần thứ hai từ 37 xã còn 11 xã.
Năm 1965, chính quyền cách mạng đã chia Điện Bàn thành 5 vùng: A, B, C, K, V gồm 26 xã. Năm 1967, sáp nhập tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Đà, Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Đà cho đến năm 1996.
Về phía địch, trong thời kỳ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chiếm đóng, Điện Bàn là một quận thuộc tỉnh Quảng Nam, năm 1963 quận Điện Bàn được địch chia thành 4 khu: Thanh Quýt, Vĩnh Điện, Kỳ Lam, Phù Kỳ.
Ngày 6-11-1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa IX, kỳ họp thứ 10, phê chuẩn việc tách tỉnh Quảng Nam thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương: tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng. Bộ máy hành chính mới của hai đơn vị bắt đầu hoạt động từ ngày 1-1-1997. Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam cho đến ngày nay.
Năm 2015, một sự kiện quan trọng ghi dấu ấn trong quá trình phát triển của huyện Điện Bàn, đó là thực hiện Nghị quyết Số 889, ngày 11/3/2015 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội chính thức công nhận Huyện Điện Bàn thành thị xã và thành lập 07 phường thuộc thị xã Điện Bàn. Đây là sự kiện quan trọng của nhân dân và đảng bộ thị xã Điện Bàn, là cột mốc mở đầu cho giai đoạn mới để Điện Bàn tập trung xây dựng một đô thị trẻ năng động và phát triển.
Nhắc đến Quảng Nam, trong đó có Điện Bàn là gắn với hành trình Nam tiến của các vị vua chúa từ các thế kỷ trước, hòa hoãn có, xung đột có, chia cắt có để cho ra đời những vùng đất mới. Nếu tính về mặt thời gian thì vùng đất Điện Bàn thuộc Đại Việt cách đây đã 714 năm, thuộc về Quảng Nam cách đây 417 năm, về mặt danh xưng thì đã tồn tại 586 năm. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử đất nước, cái tên Điện Bàn từ khi ra đời vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay, nhắc nhở cho các thế hệ sau về thời kỳ khai khẩn của cha ông, ghi đậm nét của các mốc lịch sử của dân tộc mới tạo nên một diện mạo của thị xã Điện Bàn ngày hôm nay.