Sau chương trình dâng hoa, viếng hương tại Lăng mộ cụ Hoàng Diệu, nhà thờ tộc Hoàng làng Xuân Đài và tại nhà lưu niệm; Lễ kỷ niệm 140 năm ngày mất Tổng đốc Hoàng Diệu được diễn ra trọng thể với sự tham dự của ông Võ Văn Thơ, Phó Giám đốc Sở Thông tin truyền thông tỉnh Quảng Nam; ông Phan Minh Dũng – Bí thư Thị uỷ Điện Bàn cùng các đồng chí trong Ban thường vụ, HĐND, UBND, UBMTTQVN, các ban ngành đoàn thể thị xã Điện Bàn; lãnh đạo Đảng uỷ, HĐND,UBND, UBMTTQVN xã Điện Quang, Điện Trung, Điện Phong; Ban giám hiệu và học sinh các trường PTTH Hoàng Diệu, PTTH Phạm Phú Thứ và các trường học trên địa bàn xã Điện Quang. Ban tổ chức Lễ cũng vinh dự đón tiếp NSND Huỳnh Văn Hùng, nguyên Giám đốc Sở VHTTDL thành phố Đà Nẵng; ông Bùi Văn Tiếng – Chủ tịch Hội liên hiệp VHNT thành phố Đà Nẵng – Nguyên Uỷ viên Ban thường vụ, Trưởng ban tổ chức Thành uỷ Đà Nẵng và các nhà nghiên cứu, các tác giả văn học nghệ thuật, báo chí có những tác phẩm tiêu biểu về cuộc đời sự nghiệp Tổng đốc Hoàng Diệu.

Đã 140 năm đi qua kể từ ngày Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết trong trận quyết tử giữ thành Hà Nội, nhưng niềm tiếc thương và cảm phục sâu sắc về tấm gương thanh cao trong sáng, một bậc danh tài đầy nghĩa khí, có tinh thần trách nhiệm cao cả với quê hương, đất nước vẫn mãi sáng ngời qua từng trang sử và được các thế hệ người Điện Bàn, Quảng Nam và cả nước ngợi ca.
Cụ Hoàng Diệu có tên chữ là Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 10 tháng 2 năm Kỷ Sửu (5-3-1829). Gia đình cụ Hoàng Diệu xuất thân nhà nông và theo nho học. Thân sinh cụ Hoàng Diệu là cụ ông Hoàng Văn Cự, làm hương chức, qua đời lúc 54 tuổi. Thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Khuê, thọ 88 tuổi, tần tảo làm ruộng và chăn tằm, nuôi dạy con cái.
Khoa thi Hương tại Thừa Thiên năm 1848, cụ Hoàng Diệu 19 tuổi, đỗ cử nhân.
Năm 1853, 24 tuổi, cụ Hoàng Diệu thi Đình, đỗ phó bảng và được nhận vào làm việc tại Viện Hàn Lâm ở Huế.
Năm 1854, cụ Hoàng Diệu xin về quê thọ tang cha. Năm 1855, cụ được triều đình bổ làm Tri Phủ ở Tuy Phước rồi Tuy Viễn (Bình Định). Do nhầm án từ, cụ bị giáng chức, đổi về làm tri huyện ở Hương Trà (Thừa Thiên).
Từ năm 1868 đến năm 1876, cụ Hoàng Diệu ra làm tri phủ ở Đa Phúc (Phúc Yên) rồi được thăng án sát Nam Định và bố chánh Bắc Ninh - các tỉnh gần Hà Nội. Trong thời gian ở đất Bắc, cụ Hoàng Diệu luôn được nhân dân và sỹ phu Bắc Hà quý mến. Vua Tự Đức phải thốt ra lời khen: “Chăm lo cho dân Bắc Hà, ngoài Hoàng Diệu ra không còn ai hơn”.
Năm 1878, ở Quảng Nam xảy ra nạn lụt lớn. Nước tràn về rất mạnh, cuốn trôi nhiều nhà cửa, thóc lúa, súc vật, nhiều người chết trôi, đồng ruộng ngập úng. Nhiều phủ huyện lâm vào cảnh bệnh tật, chết đói, trộm cướp, dân chúng phải ăn củ chuối trừ bữa.
Biết cụ Hoàng Diệu là người chánh trực, am hiểu dân tình và phong tục đất Quảng, vua Tự Đức trao cho cụ chức Khâm sai đại thần, cầm cờ tiết và có quyền “tiện nghi hành sự”, lo việc chẩn tế an dân, dẹp trừ trộm cướp. Cụ Hoàng Diệu đã ngày đêm sớm hoàn thành trọng trách, ổn định lại tình hình Quảng Nam. Đây là quãng thời gian cụ hết lòng với việc an dân cho tỉnh nhà, thể hiện rõ sự chính trực, yêu dân của một quan vì dân vì nước.
Sau khi hoàn thành được trách nhiệm vua Tự Đức giao phó tại Quảng Nam, cuối năm 1878 đầu năm 1879, cụ Hoàng Diệu trở về triều đình nhậm chức Tham tri Bộ Hình rồi Tham tri Bộ Lại kiêm quản Đô sát viện và sung Cơ mật đại thần.
Quang cảnh Lễ kỷ niệm 140 năm ngày mất Tổng đốc Hoàng Diệu
Năm 1880, cụ Hoàng Diệu được vua Tự Đức bổ làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội – Hà Nam – Ninh Bình). Trước khi ra Bắc nhận nhiệm vụ Tổng đốc, cụ Hoàng Diệu về lại quê hương làng Xuân Đài để thăm mẹ già. Cũng trong thời gian này, sử sách còn lưu lại chuyến viếng thăm của cụ Hoàng Diệu tại làng Đông Bàn (xã Điện Trung ngày nay) với Thượng thư Phạm Phú Thứ - đang về quê điều trị bệnh. Hai cụ trao đổi về thời thế suốt cả buổi sáng, dùng cơm trưa và cùng lạy bái biệt nhau. Sau những biến cố trong năm 1882, cả nước mất đi hai vị quan thanh liêm, hai nhân tài văn võ, hai người con trung liệt của vùng đất Gò Nổi – Điện Bàn – Quảng Nam, đó là Thượng thư Phạm Phú Thứ và Tổng đốc Hoàng Diệu. Người đời nhận ra rằng, cái lạy bái biệt năm đó của hai cụ tại làng Đông Bàn, trượng nghĩa và mang hàm ý lớn lao xiết bao!
Ngay từ đầu khi mới nhận trọng chức Tổng đốc Hà Ninh, cụ Hoàng Diệu đã nhận rõ vị trí quan trọng của Hà Nội “là đất cuống họng của Bắc Kỳ”, và “nếu một ngày tan tành như đất lở, thì các tỉnh lần lượt mất như ngói bong”.
Vì thế, cụ đã dồn hết tâm trí và sức lực vào việc bảo vệ thành Hà Nội: Củng cố việc phòng thủ thành trì, đắp thêm đất trên mặt thành, lấp hết các cửa thành và xếp bao cát xung quanh. Việc ra vào thành đều dùng thanh tre, đặt thêm đại bác ở các pháo đài. Quân lính vừa đóng ở trong thành vừa đóng ở bên ngoài để ứng cứu cho nhau.
Cùng với việc củng cố thành lũy, cụ Hoàng Diệu còn chú ý an dân, ra sức luyện quân, giao ước ứng cứu với nhiều lực lượng khác của Triều đình ở các tỉnh trung châu.
Ngày 3-4-1882, tướng Pháp - Henri Rivie từ Sài Gòn ra Hà Nội, đóng tại Đồn Thủy. Thấy số quân Pháp đã tăng gấp năm lần số ghi trong điều ước 1874, cụ Hoàng Diệu phái người tới chất vấn. Ngày 4-4 Henri Rivie đến yết kiến cụ Hoàng Diệu. Ngỏ ý muốn giao hảo của mình, đồng thời đưa ra một số yêu cầu. CỤ Hoàng Diệu không chấp thuận một yêu sách nào. Henri Rivie bèn gửi điện khẩn cho súy phủ Sài Gòn xin tiếp viện. Địch tập trung quân lực của Pháp ở Hải Phòng về Hà Nội.Trong khi đó những khẩn sớ mà cụ Hoàng Diệu mật gởi về Triều đình đều được trả lời: liệu lấy mà làm, đừng khinh động, họ lấy cớ mà gây sự!
Rạng ngày 25-4 năm 1882, tức mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ âm lịch, 5 giờ sáng, cụ Hoàng Diệu tiếp được tối hậu thư của Henri Rivie. Lời thư xấc láo như một cái lệnh cho đối phương:
“Tôi đề nghị ông phải nộp thành cho tôi theo những điều kiện mà tôi nói ngay đây. Ngày hôm nay, lập tức sau khi tiếp được thư này, ông phải ra lệnh cho quân đội ông rời khỏi thành sau khi đã hạ hết khí giới và mở cửa thành. Hãy đảm bảo với tôi rằng ông thi hành những điều tôi đòi hỏi, ông phải nạp mình cho tôi, cả các quan tuần phủ, quan bộ, quan án, đề đốc, chánh lãnh binh, phó lãnh binh đều phải đến nộp mình tại dinh bản chức đúng lúc 8 giờ sáng”.
Thời hạn chưa dứt, quân Pháp bắt đầu nổ súng. Henri Rivie hạ lệnh tấn công: ba tàu chiến ngược dòng sông Hồng đến ngang chỗ Cửa Bắc nã đại bác vào thành; quân Pháp dùng nghi binh ở Cửa Đông và Cửa Nam nhưng tập trung lực lượng đánh Cửa Bắc và Cửa Tây.
Tổng Đốc Hoàng Diệu và tuần phủ Hoàng Hữu Xứng lên mặt thành chỉ huy cuộc tác chiến. Quân ta trước đã đóng chặt Cửa Đông và Cửa Bắc, chú trọng giữ Cửa Nam và Cửa Tây. Đánh nhau từ 8 giờ đến 11 giờ sáng. Lục quân Pháp từ lối sông tiến vào Cửa Bắc, nhưng những nhà tranh trên dãy phố Hàng Than, Hàng Bún bị đốt cháy, khỏi lửa mù mịt, cản bước đi của giặc. Ở Cửa Nam nhiều toán nghĩa quân tập hợp, tham gia giữ thành bằng cách đánh chặn địch bên ngoài.
“Lửa phun súng phát bốn bề
Khiến loài bạch quỷ hồn lìa phách xiêu.
Bắn ra nghe chết cũng nhiều
Phố phường nghe thấy tiếng reo ầm ầm
Quân ta đắc chí bình tâm
Cửa Đông, Cửa Bắc vẫn cầm vững binh.”
(Trích Hà thành chính khí ca)
Cùng với Tổng đốc Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội cũng bùng cháy tinh thần yêu nước chống giặc xâm lược. Ngay từ giờ phút đầu của cuộc chiến đấu, đông đảo nhân dân Hà Nội từng đoàn mang theo khí giới kéo đến cửa thành xung phong giết giặc. Các nhà dân, đình chùa đánh trống gõ mõ, khua chiêng vang dội để khoa trương thanh thế áp đảo tinh thần địch, hỗ trợ cho tinh thần quyết chiến của quan quân trong thành. Cùng lúc, có hàng nghìn quân dân vũ trang giáo mác, gậy gộc kéo nhau đến tập hợp trước đình Quảng Văn, vườn hoa cửa Nam bấy giờ, rồi thẳng tiến vào thành để tham gia chiến đấu.
Trận kịch chiến diễn ra từ sáng đến trưa. Quân triều đình dưới quyền chỉ huy của Tổng đốc Hoàng Diệu đang anh dũng chiến đấu thì thình lình kho thuốc súng trong thành bùng nổ. Lửa bốc cháy ngùn ngụt, mỗi lúc càng lan rộng. Quân giặc thừa cơ bắc thang trèo vào phá cổng thành phía Tây rồi ào ạt kéo vào thành. Một số quan lại triều đình ở cửa thành phía Đông bỏ chạy. Duy chỉ có thủy sư lãnh binh Nguyễn Đình Khang thì liều chết cố thủ thành phía Nam cho tới phút cuối cùng.
Thân cô, thế cô. Biết không thể giữ được thành, Tổng đốc Hoàng Diệu đi vào hành cung thảo tờ Di biểu để gửi về vua Tự Đức.
Thảo xong Di biểu , Tổng đốc Hoàng Diệu quay ra, đi thẳng đến Cửa miếu Quan Công, lấy chiếc khăn xanh đang chít trên đầu làm dây, treo lên cành táo trước miếu mà tuẫn tiết. Lúc đó đúng giờ ngọ ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (25 – 4 – 1882). Năm ấy, Tổng đốc Hoàng Diệu tròn 54 tuổi.
Sự hy sinh của Tổng đốc Hoàng Diệu đã để lại muôn niềm tiếc thương và cảm phục đối với dân với nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi:
“Nước ta nhiều kẻ tôi trung,
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tiết sương.
Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương
Cùng thành còn mất làm gương để đời.”
Hay tin Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, sĩ dân Hà Nội rất cảm phục và đau xót. Nhân dân Hà thành đã góp tiền mua áo quan, làm lễ mai táng Tổng đốc Hoàng Diệu tại vườn dinh đốc học – nay là khu vực ga Hà Nội mới ở Phố Trần Quý Cáp. Về sau, cùng một số quan lại của Triều đình, gia đình gia tộc đã tổ chức việc đưa hài cốt của cụ theo đường thủy về quê hương Quảng Nam.
Vua Tự Đức viết trong lời Dụ ngày mồng 10 tháng 5 năm Nhâm Ngọ;
“Gần đây, Hà Thành có việc Tổng đốc Hoàng Diệu đã thề cố thủ, có chết cũng không đổi chí. Các bầy tôi cùng coi thành lẽ ra phải đồng tâm nỗ lực, bám thành huyết chiến, chết cũng không rời. Thế mới hợp với nghĩa tri thân.
Thế mà, tất cả khiếp nhược không giữ trọn nghĩa. Trong khi thành mất, chỉ một mình Hoàng Diệu tận trung tử tiết mà thôi. Rất đáng khen!”
Tổng đốc Hoàng Diệu đã trở về, mãi mãi yên nghỉ giữa cánh đồng làng Xuân Đài quê nhà bốn mùa ngào ngạt hương thơm. Khu lăng mộ Tổng đốc Hoàng Diệu, được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 25/10/1994. Bộ Văn hoá - Thông tin, UBND thành phố Hà Nội, UBND tỉnh Quảng Nam, huyện Điện Bàn, xã Điện Quang và gia tộc đã khởi công trùng tu tôn tạo Lăng mộ vào ngày 30/8/1997 và khánh thành vào ngày 04/04/1998.
Cùng với di tích Lăng mộ, tháng 3 năm 2013 Nhà lưu niệm Tổng đốc Hoàng Diệu được khởi công xây dựng với tổng kinh phí đầu tư 7 tỷ đồng, trong đó UBND thành phố Hà Nội hỗ trợ 5 tỷ đồng, số tiền còn lại do UBND thị xã Điện Bàn và con cháu tộc Hoàng xa gần đóng góp.
Công tác giáo dục, phát huy truyền thống, chăm lo hương khói cho Lăng mộ và Nhà lưu niệm Tổng đốc Hoàng Diệu luôn được các cấp các ngành, mặt trận, đoàn thể, cơ quan đơn vị trường học, các em học sinh từ tỉnh đến địa phương và gia đình gia tộc quan tâm chu đáo. Định kỳ hằng năm và theo các đợt lễ, tết… đều có tổ chức dọn dẹp vệ sinh, dâng hoa viếng hương tưởng niệm. Các tổ chức, cá nhân, các nhà nghiên cứu, các tác giả văn học nghệ thuật, báo chí… trong và ngoài tỉnh, đã có những tác phẩm xuất sắc tôn vinh, ca ngợi tài đức, sự hy sinh cao cả của Tổng đốc Hoàng Diệu.
Tinh thần, khí phách của Tổng đốc Hoàng Diệu với sự hy sinh lẫm liệt “thung dung tựu nghĩa” sẽ mãi mãi sáng soi trong trang sử vàng của quê hương đất nước, là tấm gương trung liệt mà đời đời hậu thế noi theo.