Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam; khẳng định những đóng góp to lớn, vĩnh cửu đối với cách mạng dân tộc; khẳng định vai trò vĩ đại của Người thanh niên yêu nước chân chính, tài ba, lỗi lạc - Nguyễn Tất Thành.
Thời kỳ đó, dân tộc Việt Nam đang trong cảnh lầm than, đen tối. Phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi trên khắp cả nước, nhưng do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức phong trào chưa chặt chẽ, không có cơ sở rộng rãi và vững chắc trong quần chúng. Nên, các phong trào yêu nước bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Dù không thành công nhưng các phong trào đã làm thức tỉnh, cổ vũ truyền thống yêu nước, chí căm thù giặc Pháp của nhân dân ta, đã gây tiếng vang trên thế giới và thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục đi lên.
Nguyễn Tất Thành - Người thanh niên Việt Nam yêu nước chân chính, mãnh liệt bằng dự cảm chính trị thiên tài, suy nghĩ táo bạo, trí tuệ minh mẫn đã nhận thấy những hạn chế, bế tắc về mục tiêu, phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thời; bằng những bài học lịch sử và khảo nghiệm trong thực tiễn, Nguyễn Tất Thành quyết định phải tìm con đường khác, con đường mới; phải đi ra nước ngoài theo một hướng khác - hướng ngay trong lòng xã hội nước Pháp. Đây là quyết định quan trọng mở ra chặng đường 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước của Người.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước. Trong những năm ở Mỹ, ở Pháp, Người dành nhiều thời gian tìm hiểu về các cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới: cách mạng Mỹ (1776) với bản “Tuyên ngôn Độc lập” và cách mạng tư sản Pháp (1789) với bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền”. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những nước này, nhưng không thể đi theo con đường của họ. Bởi vì, “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Người đã không lựa chọn con đường cách mạng tư sản, bởi theo Người, đó là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì nó không hề đề cập đến vấn đề giải phóng mọi tầng lớp nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công.
Đầu năm 1913, tại Anh, Nguyễn Tất Thành tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Airơlen. Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Đây là dịp để Người tìm hiểu sâu về cách mạng tư sản Pháp, về công xã Pari (năm 1871) và về cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga. Với tinh thần học tập không biết mệt mỏi và ý chí phấn đấu kiên cường vượt qua những thử thách của cảnh nghèo túng, thiếu thốn trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tiến những bước dài trong quá trình tìm đường cứu nước - tìm đến đỉnh cao của trí tuệ thời đại là Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ năm 1911 - 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đi qua hàng chục quốc gia, từ các nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ La-tinh. Người vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập và tìm hiểu tình hình chính trị - xã hội của nước sở tại, các nước tư bản chủ nghĩa khác, tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Người hiểu thấu bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Từ kết luận này đã đặt cơ sở cho phát triển quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc về bạn, thù và sớm hình thành tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, về sự đoàn kết cách mạng ở chính quốc với cách mạng thuộc địa.
Tháng 12-1920, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc phát biểu ủng hộ Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin là dấu ấn, bước ngoặt quan trọng, quyết định trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường giải phóng dân tộc, sau khi nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng, Nguyễn Ái Quốc xác định con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tháng 4/1921, tờ La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản) đăng bài “Đông Dương” đánh dấu điểm bắt đầu truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1921 đến tháng 2/1923 Nguyễn Ái Quốc viết trên 20 bài đăng trên các báo L’Humanité và La vie ouvrière, đây là hai tờ báo có ảnh hưởng lớn trong tầng lớp công nhân, người lao động Pháp và đặc biệt là có ảnh hưởng đối với các nước hải ngoại. Và với vai trò là chủ bút báo Le Paria (Người cùng khổ), Nguyễn Ái Quốc đã có gần 40 bài viết, nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc soạn thảo những bài viết, bài giảng để tuyên truyền với lời văn giản dị, nội dung thiết thực vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa và nhân dân Việt Nam; nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc; làm thức tỉnh nhân dân và định hướng hành động cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bằng những hoạt động tích cực, Nguyễn Ái Quốc đã gây ảnh hưởng nhất định trong phong trào cộng sản ở Pháp, cũng như ở trong nước; truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam một cách thường xuyên, có hệ thống; là sự mở đầu quan trọng nhằm khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân theo tư tưởng, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cùng với việc chuẩn bị về công tác tư tưởng, công tác chính trị cho thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc còn dày công chuẩn bị về mặt tổ chức. Người trực tiếp tổ chức các khóa huấn luyện, đào tạo cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vào tháng 6/1925 để đưa cán bộ về nước chuẩn bị lực lượng và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin cho đông đảo quần chúng nhân dân. Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn một số thanh niên gửi đi học ở trường quân sự Hoàng Phố và trường chính trị Phương Đông để xây dựng lực lượng cán bộ cốt cán cho Đảng sau này. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ; giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp khác nhau dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng; rèn luyện, giác ngộ lớp thanh niên yêu nước về lập trường giai cấp; thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ; giác ngộ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác;...
Việc xây dựng được một hệ thống tổ chức và phong trào cách mạng trên cả nước; khơi dậy tinh thần sục sôi, hoài bão cách mạng trong những thanh niên yêu nước; và đưa phong trào “vô sản hóa” vào sâu các cuộc đấu tranh, truyền bá lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng đúng đắn trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã phản ánh tư duy sáng tạo và thành công của Nguyễn Ái Quốc trong công tác chuẩn bị về mặt chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là điều kiện chín muồi, hợp quy luật cho sự ra đời tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam./.