1.
“Mừng lắm, phấn khởi lắm, anh em ai nấy đều vui, chảy cả nước mắt!”, giọng người cựu quân nhân 88 tuổi vẫn sang sảng cùng với nụ cười rạng rỡ. Những đoạn ký ức ẩn hiện, như một guồng phim cũ, quay chầm chậm, có khúc rối, phải dừng, tua lại, bỏ qua, nhưng xuyên suốt vẫn là tinh thần hào sảng, đầy khí chất của một vị anh hùng mà cuộc đời từ thuở thiếu thời đã lựa chọn con đường cách mạng, trải qua bao trận mạc, tù đày, để rồi đến một ngày, ông cùng đồng chí, đồng đội, đồng bào hân hoan khúc ca khải hoàn ngay trên mảnh đất quê hương.
Anh hùng LLVTND Trương Văn Hòa tại Lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Bồ Bồ (1954-2024)
Ông là Trương Văn Hòa, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, người con ưu tú của làng Bích Bắc, xã Điện Hòa. Những ngày tháng 3 lịch sử 50 năm trước, cả huyện, cả tỉnh chuẩn bị cho tổng tiến công, nổi dậy giải phóng quê nhà. Lực lượng khởi nghĩa của huyện, của xã nhanh chóng hình thành, phối hợp với bộ đội chủ lực của tỉnh, sẵn sàng chờ lệnh tiến công. Công tác vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men… cũng được khẩn trương. Ngày 24.3.1975, thị xã Tam Kỳ được giải phóng. Theo mật lệnh của Đặc khu ủy Quảng Đà, nhiệm vụ của Điện Bàn là giải phóng huyện nhà, mở đường cho giải phóng Đà Nẵng. Liên tiếp những ngày sau đó, khí thế tiến công dồn dập trên chiến trường Quảng Nam làm cho ngụy tề ở các chốt điểm tại Điện Bàn hoang mang. 7h sáng ngày 28.3.1975, Huyện ủy Điện Bàn phát lệnh khởi nghĩa trong toàn huyện. Lúc này, ông Hòa cùng lực lượng vũ trang của huyện đang đóng chân tại Điện Thọ, cùng với Điện Tiến là hai xã nhận lệnh khởi nghĩa sớm nhất, nổi dậy tiến công địch.
Ông Hòa nhớ: Đó là những ngày thực sự sôi động. Đơn vị của ông cùng lực lượng khởi nghĩa tiến công vào các chốt điểm tại ngã ba Trùm Giao, ngã tư Nông Sơn, cầu Bình Long. Ngày 28.3 cũng là thời điểm mà các huyện bạn Đại Lộc, Duy Xuyên, Hội An được giải phóng, cùng với việc binh sĩ ngụy binh biến từ quân trường Hòa Cầm chạy về hướng Điện Bàn nên khí thế tiến công của quân ta dâng cao, ngược lại địch thì hoang mang, tan rã. Trưa cùng ngày, quân ta đã bức hàng đồn Bồ Bồ, Trảng Nhật. Đến chiều thì đánh đến chốt điểm cầu Giáp Năm, địch đầu hàng.
Dòng sông Bình Phước giữa đôi bờ Điện Tiến, Điện Thọ, Điện Hòa
Thời khắc lịch sử đã điểm, 4 giờ sáng ngày 29.3.1975, anh hùng Trương Văn Hòa chỉ huy hai đại đội 1 và 2 của huyện Điện Bàn tiến vào đánh chiếm cầu Vĩnh Điện. Đại đội 3 tiến công vào chi khu quận lỵ Điện Bàn. Ông Hòa kể: Lúc đó vừa rạng sáng, cánh quân của ông thuận lợi tiến từ cầu Vĩnh Điện vào, dọc theo con phố mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Cùng với các mũi tiến công, ông cùng đồng đội áp sát cửa ngõ phía Tây, hướng quốc lộ xuống, bất ngờ, từ trong chi khu quận lỵ, 3 tên địch xông ra, bị quân ta bắn chết ngay tại chỗ. Các cánh quân ta băng qua hào nước, tiến vào khống chế các trụ sở, tòa nhà bên trong quận lỵ. Địch co cụm về đây từ nhiều ngày qua rất đông nhưng đồng loạt đầu hàng.
7 giờ sáng ngày 29.3.1975, chi khu quận lỵ Điện Bàn và cả thị trấn Vĩnh Điện phất phới cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng. Trải qua một ngày đêm tốc chiến tiến công không nghỉ nhưng gương mặt đồng đội, đồng chí, ai nấy đều rạng rỡ, hân hoan. Điện Bàn quê ta đã thực sự được giải phóng hoàn toàn!
2.
Sinh năm 1937, lên 10 tuổi, cậu bé Hòa tham gia du kích địa phương làng Bích Bắc. 15 tuổi, được tổ chức đưa đi đào tạo để đảm nhận nhận trọng trách thông tin bí mật của du kích xã. 26 tuổi, năm 1963, ông nhận chức Phó đội trưởng du kích Điện Hòa, 2 năm sau làm Xã đội trưởng. 30 tuổi, Trương Văn Hoà được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công Giải phóng (1 hạng Nhất, 1 hạng Nhì, 1 hạng Ba). Ngày 17.9.1967, Trương Văn Hòa được Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), Huân chương Quân công Giải phóng hạng Nhì.
Trong những năm chiến đấu, Trương Văn Hoà cùng đội du kích xã Điện Hòa đã diệt 1.249 tên địch, trong đó có 584 tên Mỹ, bắt sống 108 tên, thu 137 khẩu súng, đánh nhào 3 đoàn tàu lửa, làm mìn tự tạo diệt 14 xe bọc thép, bắn rơi 6 máy bay. Riêng ông Trương Văn Hoà đã diệt và làm bị thương 440 tên, trong đó có 160 tên Mỹ, phá huỷ 13 xe bọc thép, bắn rới 1 máy bay, thu 16 khẩu súng. Năm 1969, ông bị sa vào tay giặc trong trận đánh ở Điện Thọ. Nếm đủ các nhục hình tra tấn từ các trại tù ở Điện Bàn, Đà Nẵng và bị đưa ra Phú Quốc, ông Hòa tiếp tục đấu tranh, được anh em tù tín nhiệm bầu làm Phó Bí thư Đảng ủy nhà lao. Ông nói: “đấu tranh trong tù còn khốc liệt hơn đánh giặc ngoài chiến trường”. Vượt qua bao khó khăn, gian khổ, chuyến vượt ngục trở về đất liền của ông thành công. Năm 1972, ông được Trung ương cục Miền Nam đưa về quê, tiếp tục hoạt động với chức vụ Huyện đội phó huyện đội Điện Bàn.
Trương Văn Hòa còn đi đầu trong phong trào tự chế tạo vũ khí để diệt xe cơ giới, ngăn chặn các cuộc càn quét và vận chuyển binh lính bằng tàu lửa của địch. Ông kể, ngày đó quân mình thiếu vũ khí, không có thuốc nổ TNT. Sau khi thu chiến lợi phẩm của địch về, ông mày mò nghiên cứu từng quả bom, mở đầu mở đuôi ra rồi cưa, mỗi quả bom lấy được 10kg thuốc nổ. Dự đoán tình tình địch sẽ hành quân qua đoạn đường nào thì ông bí mật đặt kíp nổ trực tiếp. Khi đi đặt kíp nổ, chỉ một mình ông đi, anh em muốn đi cùng ông nhưng nhất quyết không cho, vì nghĩ vũ khí tự chế rất nguy hiểm, nếu có sơ suất xảy ra thì mình ông chịu. “Rứa mà khá là không có quả mìn nào sai kỹ thuật, đều phát nổ đúng thời điểm hết, có quả mìn nổ chết 20 tên lính Mỹ”, ông hồ hởi kể, “việc chế tạo vũ khí cũng có học nhưng học từ kinh nghiệm chứ không có trường lớp nào”.
3.
Bà Lê Thị Lai, sinh năm 1944, người con gái Hòa Tiến, vợ của AHLLVTND Trương Văn Hòa. Cuộc đời làm vợ, làm mẹ của bà cũng đầy gian truân, hiểm họa theo tháng năm trận mạc, mịt mù thuốc súng của người chồng anh hùng. Ông bà có với nhau 4 người con, trong đó có 2 người con trai được sinh ra trong chiến tranh. Bà Lai kể, đóng quân và chỉ huy các trận đánh trên đất Điện Bàn, nhưng thời gian ông Hòa về thăm vợ con đếm chưa hết đầu ngón tay. Anh trai đầu sinh năm 1965, người con thứ hai sinh năm 1968, nhưng mãi đến 4 năm sau, hai cha con mới gặp mặt nhau. “Đó là những ngày tháng vô cùng khó khăn, gian khổ, tưởng chừng như không đủ sức vượt qua nổi. Sau lần ghé thăm nhà năm 1967, ổng đi biệt luôn. Tui mang thai rồi sinh đứa con thứ 2 nhưng ổng nào hay biết. Chiến tranh, cơ cực, đói khổ đã đành, nhưng càng đau đớn hơn khi tôi nhận được tin ổng mất tích. Đó là năm 1969, tổ chức nói với tôi, ông Hòa hy sinh trong trận đánh chống giặc đi càn ở vùng giáp ranh Điện Thọ, Điện Phước nhưng không lấy được xác. Những ngày sau đó, người nhà chúng tôi âm thầm tìm kiếm, dò hỏi khắp nơi, nhưng bặt vô âm tín. Đau đớn, tuyệt vọng, chúng tôi tìm đến cả những người xem quẻ, lên đồng. Rồi gia đình về lập bàn thờ, cúng giỗ suốt mấy năm…”. Bà Lai xúc động kể.
Nụ cười rạng rỡ của ông Hòa bên người vợ thân yêu
Rồi cũng bất ngờ như ngày nhận được tin ông mất tích, năm 1972, người cháu từ dưới làng Hà Đông lên gặp bà, đưa mảnh giấy nhỏ và nói “Chú Mười (tên gọi trong gia đình của ông Hòa) về rồi!”. Bà Lai run rẩy. Mấy ngày sau, cùng với người chị, bà dắt 2 anh con trai vòng lên Điện Tiến, qua ngõ Cồn Dê, rồi vượt sông Bình Phước, qua cánh đồng Giáng La, vừa đi vừa dò hỏi đường, để tìm gặp ông. Đi suốt một ngày rõng rã, anh trai lớn lên 8 lội ruộng bị lăn xuống hục bom, ướt mềm. Cuộc gặp bất ngờ, cả nhà mừng mừng tủi tủi, hai con vừa đói, vừa lạnh. Không kịp chuẩn bị thức ăn, người cha đưa cho mỗi con một củ sắn nhỏ. Ngay trong đêm ấy, du kích cắt đường đưa ba mẹ con trở về nhà an toàn.
4.
Ngày 27.6.1968, trên đường đi dự hội nghị Chiến tranh du kích Nhân dân, nhà văn Chu Cẩm Phong cùng đi với 6 đại biểu của Điện Bàn. Nhà văn kể, có chị Mười, Huyện đội phó và 5 tay thanh niên đi cùng rất nghịch ngợm, kể chuyện tiếu lâm suốt và cười rần rật. Nhà văn có gợi hỏi, và đây là một trong những chuyện họ kể: “...Trương Văn Hòa hiện nay là Huyện đội phó, trong trận đánh tập kích đồn Bàu Sáu, lúc rút lui đạn và pháo địch bắn rát. Lúc chạy lướt qua một nhà nọ, anh phát hiện một người đàn bà nửa quỳ, nửa nằm, quằn quại ngay ngạch cửa. Người đàn bà đang chuyển bụng đẻ. Xung quanh không có một ai. Anh gọi anh em lại cho bố trí tất cả để chặn địch, bảo vệ người mẹ này, và chính tay anh, đôi tay vừa xả từng tràng tiểu liên vào địch, còn khen khét mùi thuốc súng đã đỡ em bé, khai sinh một cuộc đời, đón một con người vừa ra đời. Các bạn anh cầm súng nằm ngoài hồi hộp lắm. Bà mẹ sau này rất biết ơn anh, nhưng chuyện này anh không dám kể trong các đại hội anh hùng. Anh bảo rằng – dị quá…”. (Nhật ký chiến tranh- Chu Cẩm Phong –NXB Văn học, Hà Nội 2000)
Còn bao nhiêu câu chuyện nữa về người Anh hùng của Nhân dân - Trương Văn Hòa, ông không muốn kể, đồng đội ông, có người chưa kịp kể…
Thế hê trẻ xã Điện Hòa tiếp nối truyền thống anh hùng
Đã 50 mùa xuân hòa bình, anh hùng Trương Văn Hòa giã từ binh nghiệp, trở về bên mái ấm gia đình, nhưng trong sâu thẳm trái tim ông, nỗi đau chiến tranh vẫn luôn nhức nhối. “Trên người tôi nhiều vết thương lắm, chỗ này, chỗ này, nặng nhất là viên đạn vào đầu khiến tôi chết ngất nên bị địch bắt đưa đi tù lần đó, nhưng tất cả không là gì cả, tôi vẫn may mắn được đồng bào, đồng chí che chở để sống đến hôm nay. Còn đồng đội tôi, biết bao nhiêu người đã ngã xuống, bao người ra đi mãi mãi không về…”
Người anh hùng trầm ngâm. Ông bảo, đừng mãi nói về thành tích của ông. Ông ngồi đó, bình thản, giản dị, nụ cười đôn hậu. Phía sau ông, một mảng tường, lấp lánh dày đặc những bằng khen, huy chương, huân chương chiến công, rực sáng!