Đại tá Lê Ngọc Bảy, nguyên Phó chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự (CHQS) tỉnh Quảng Nam, nguyên Tiểu đoàn trưởng R20 trông vẫn rất trẻ ở tuổi 75. Những dịp được mời đi nói chuyện truyền thống với sinh viên, học sinh các trường nhân dịp lễ lớn của đất nước, giọng ông vẫn còn đầy hào sảng. Ký ức như mạch ngầm tuôn trào trong ông dù chiến tranh đã đi qua nửa thế kỷ.
Quân giải phóng tiến vào thành phố Đà Nẵng 29.3.1975. Ảnh TL.
Nhập ngũ vào R20 làm lính trinh sát từ năm 1966, tham gia trận Mậu Thân lịch sử ở Cồn Dầu – Trung Lương và đánh địch phản kích ở chiến dịch Thượng Đức, ông Bảy trưởng thành cùng sự lớn mạnh của Tiểu đoàn. Giữ cương vị Tiểu đoàn trưởng lúc mới 24 tuổi, một năm sau, ông dẫn quân đi giải phóng Đà Nẵng.
Theo Đại tá Bảy, để có mặt ngày 29-3, Tiểu đoàn R20 đã đi một chặng đường dài khốc liệt mà anh dũng. Gần đến ngày vinh quang, máu xương của cán bộ chiến sĩ còn đổ xuống ở các cao điểm Quảng Nam. Ngày 23-3-1975, Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 họp, ra quyết định: “Nắm chắc thời cơ, phấn đấu trong một thời gian ngắn giải phóng hoàn toàn các địa bàn của Quân khu”. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, các đơn vị chủ lực và bộ đội địa phương đồng loạt tiến công giải phóng thị xã Tam Kỳ, tỉnh lỵ Quảng Tín. Tư lệnh Mặt trận 44 giao cho R20, lúc này thuộc đội hình Trung đoàn 96, bằng mọi giá trong 2 ngày 23 và 24-3 phải tiến công, tiêu diệt gọn đại đội lính địa phương quân ở đồi Đá Đen (A196), chốt điểm Gò Phan, cách nhau 1 km (nay thuộc Duy Trung, Duy Xuyên, Quảng Nam). Chiếm được 2 cứ điểm này mới có thể phát triển đánh quận lỵ Duy Xuyên, Quốc lộ 1A, hình thành hướng bao vây chia cắt địch từ hướng Nam, tạo bàn đạp cho Sư đoàn 2 tấn công vào thành phố Đà Nẵng. Sự cố đã xảy ra khi lực lượng tiền trạm chịu tổn thất, đặc biệt là sự hy sinh của Đại đội trưởng Vũ Văn Thời.
Trước tình huống khó khăn, Tiểu đoàn trưởng Lê Ngọc Bảy quyết thay đổi phương án tác chiến. Vậy là chỉ trong vòng 15 phút, cao điểm Đá Đen và Gò Phan đã thất thủ, 1 đại đội địa phương quân ở đây bị tiêu diệt hoặc bắt sống, chỉ còn vài tên chạy thoát. Với trận thắng này, Tiểu đoàn được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất và Tiểu đoàn trưởng được tặng Huân chương Chiến công hạng Hai. Chiều ngày 27-3, đơn vị hành quân từ Xuyên Trà (Duy Xuyên) về Điện Hòa. Sáng 29-3, lúc 7 giờ, R20 được lệnh đi giải phóng Đà Nẵng. Trước đó, đơn vị nhận lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam và người nắm giữ là quyền đại đội trưởng Lê Thành Huynh. Hòa cùng lực lượng Sư đoàn 2, Trung đoàn 96 trong đó có Tiểu đoàn R20 từ Trảng Nhật đến ngã ba quán Bốn Anh – Điện Thắng thì chia thành 2 mũi, nhanh chóng xuất kích về Đà Nẵng.
Mũi của Tiểu đoàn trưởng Bảy có đồng chí Lê Công Thạnh, Phó Chính ủy Mặt trận 44 chỉ huy. Để bộ đội cơ động nhanh vào tiếp quản các mục tiêu, lực lượng cách mạng bên trong sau khi nổi dậy làm chủ một số địa bàn đã sử dụng hàng chục ô tô chạy ra đón bộ đội vào. Nhân dân hai bên đường, chủ yếu là phụ nữ, thanh thiếu niên vui mừng chào đón đoàn quân giải phóng. Tuy nhiên khi xe đi đầu của Đại đội 1 đến chợ Miếu Bông thì gặp một đám tàn quân địch khoảng 1 đại đội dùng súng bắn chặn, lập tức Tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho xe vừa chạy, vừa sử dụng tiểu liên AK bắn vào quân địch. Đại đội 2 từ phía sau vượt lên kịp thời truy kích tiêu diệt địch, đơn vị tiếp tục xuất kích. Khi vào trung tâm thành phố, mũi 1 của R20 từ ngã Ba Huế phát triển xuống ngã Ba Cai Lang – đường Thống Nhất thì gặp cản trở khi nhân dân hỗn loạn cướp kho gạo của địch để lại, buộc đơn vị phải để lại một tiểu đội dẹp trật tự. Không còn trở ngại nào khác, Đại đội 1 tiến thẳng xuống đường Bạch Đằng, chiếm Tòa thị chính. Lúc này địch bỏ chạy, Tiểu đoàn trưởng Bảy chỉ huy quyền đại đội trưởng Lê Thành Huynh hạ cờ 3 que xuống và treo lá cờ Mặt trận lên. Đồng hồ chỉ đúng 11 giờ 30 phút.
Đại tá Lê Ngọc Bảy khẳng định chắc nịnh: “Tiếc là lúc đó đơn vị không có tuyên huấn đi cùng, không có máy ảnh để chụp thời khắc lịch sử, nhưng lớp cán bộ, chiến sĩ ngày ấy vẫn còn nhiều. Lúc ấy, tôi đã cầm máy thông tin trực tiếp gọi cho Tư lệnh Mặt trận Phan Hoan rằng, R20 đã chiếm lĩnh Tòa Thị chính. Ở mũi thứ hai, Đại đội 2 tiến theo đường Khải Định (nay là đường Ông Ích Khiêm) rồi được nhân dân giúp đỡ, đơn vị tiến xuống Thanh Bồ - Đức Lợi, truy bắt các nhóm tàn quân địch sau đó trấn giữ các vị trí quan trọng.”.
Cờ Mặt trận dân tộc giải phóng tung bay tại Tòa thị chính Đà Nẵng 1975. Ảnh TL
Sau giải phóng, cuối năm 1978, ông Lê Ngọc Bảy tiếp tục chỉ huy Tiểu đoàn 1 trong đội hình Quân khu 5, giúp nước bạn, giải phóng Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Được trở về nước, đi học và giữ cương vị cao hơn, nhưng với ông R20 luôn là máu thịt. Trong một lần đến thắp hương Đại đội trưởng Vũ Văn Thời, quê Hòa Liên (Hòa Vang), người hy sinh ở đồi Đá Đen, ông Bảy đã tìm được dấu tích về đồng đội. Đó là nhờ dò la, tìm hiểu, ông biết trong xã Hòa Liên có người lính phía bên kia đã trực tiếp chôn cất anh Thời cùng hai đồng chí khác. Tất cả hy sinh là do vướng mìn địch đặt ở nơi không ngờ đến. Vậy là nhờ may mắn, cả ba đã được đưa về nghĩa trang xã an táng trang trọng sau hơn hai năm bị vùi lấp ở gò đồi.
Về hưu ở An Hải Bắc, Sơn Trà, Đà Nẵng, cuộc sống của Đại tá Lê Ngọc Bảy tiếp tục sôi động với 10 năm làm Bí thư chi bộ và chỉ nghỉ hoàn toàn thời gian gần đây. Người thương binh 2/4 này vẫn còn xúc động khi kể lại giây phút gặp cha mẹ và các anh chị em sau 9 năm thoát ly làm anh bộ đội. Cả gia đình rời quê ra ở Đà Nẵng, bình an sau bao biến cố. Cái ôm chặt của mẹ trong nước mắt mừng vui khi đứa con phương trưởng, tiếng chúc mừng hồ hởi “Tiểu đoàn trưởng trẻ quá” và cả âm thanh xuýt xoa lần đầu tiên người thân cắn miếng lương khô ngọt và giòn rụm mà Trung đoàn trưởng Lại Nam Dương tặng ông làm quà… Tất cả hiện lên sinh động, ấm áp.
Người con Điện Hồng nói khẽ: “Tôi đã may mắn được trở về, thấy ngày quê hương giải phóng, găp được mẹ cha, trong khi bao đồng đội mãi mãi nằm lại ở chiến trường. Tôi càng phải sống sao cho xứng đáng với ngày hôm qua”.