Địa danh làng xã Điện Bàn, cho đến nay vẫn chưa có được một tài liệu thống kê đầy đủ và khoa học, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1945 trở về trước. Đây là một chặng đường dài với nhiều biến động lịch sử, tách nhập, phân chia địa giới, thay đổi hành chính. Điện Bàn từ một huyện của đạo Thừa tuyên Thuận Hóa ở thời Hồng Đức, đến phủ Điện Bàn của Dinh Quảng Nam thời chúa Nguyễn, rồi trở lại là huyện từ năm 1945. Theo dòng chảy lịch sử, số lượng, tên làng, tên xã cũng có nhiều thay đổi. Vào giữa thế kỷ XVI, theo Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An đã kể ra 66 tên làng. Đến khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng thăng Điện Bàn lên thành phủ nhập về dinh Quảng Nam, năm 1602, đây là bước phát triển chiến lược, xây dựng Điện Bàn thành vùng đất trù phú, thịnh vượng, có yếu tố quyết định cho công cuộc nam tiến thời các Chúa Nguyễn. Trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776 thì Điện Bàn đã phát triển thành 5 huyện, 12 tổng, 197 xã, 19 thôn, 7 giáp, 205 phường và 86 châu. Dưới thời nhà Nguyễn, từ năm 1803, Điện Bàn khi là phủ, khi là huyện, địa giới cũng có nhiều thay đổi, đến năm 1945 thì gồm 9 tổng, 115 làng.
Sông quê êm đềm
Thống kê sơ bộ các con số trên để thấy rằng, việc đi tìm địa chỉ chính xác của một địa danh trong khoảng thời gian này khi chưa có được tư liệu chính thống là điều không dễ dàng. Rất may, trong sự tách nhập phân chia của người xưa dường như vẫn có những “quy tắc ngầm” được tuân thủ. Ngoại trừ những vùng đất mới được lập thì tên gọi của các làng xã cũ vẫn không bị thay đổi dù có sự thay đổi hành chính từ xứ đất lên làng lên xã hay giáp, tổng… Nếu phạm húy vì tên các đời vua chúa hay các lý do khác thì sự thay đổi cũng không nhiều, đa phần là cách đọc/viết chệch đi chút ít và đặc biệt là vẫn ẩn chứa những ngữ nghĩa, câu chuyện gắn với đặc điểm, lịch sử của tên gọi vùng đất ấy. Đơn cử, trong 66 tên làng cổ của huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong mà Dương Văn An viết từ năm 1553, có đến 24 địa danh mà qua thời gian vẫn còn được lưu giữ trên vùng đất Điện Bàn hôm nay, trong đó có 11 tên được giữ nguyên: Đắc Ký, Kỳ Lam, Giáng La, Nông Sơn, Bất Nhị, Đông Bàn, Giáo Ái, Bích Trâm, Lai Nghi, Phong Hồ, Uất Lũy; 13 địa danh có chút thay đổi: Hoa Thử thành Phong Thử, Hà Khúc thành Hà Nông, Hạ Nông, Đa Thử thành Đa Hòa, Cẩm Đăng thành Cẩm Văn, Lỗi Sơn thành Cẩm Sơn, Diễm Sơn thành Diệm Sơn, Hoa Hồ thành Đông Hồ, Kim Sa thành Cẩm Sa, Thị Lại thành Thi Lai, Kim Lữ thành Cẩm Lậu, Nhân Triêm thành Phú Triêm, Cúc Lũy thành Khúc Lũy và Kim Quất thành Thanh Quất/Thanh Quýt. Những tên làng khác cũng còn được lưu danh trên địa phận của các vùng lân cận Điện Bàn đến hôm nay như: Cẩm Lệ, Phiếm Ái, Túy Loan, Bàn Thạch…
Từ 1945 đến nay là sự hợp, phân từ làng qua xã, thôn hoặc là khu, vùng, theo cách gọi của chính quyền hai bên trong những năm kháng chiến. Điều đáng chú ý của giai đoạn này là sự sáp nhập vào năm 1946, Điện Bàn từ 115 làng hợp thành 37 xã. Thời điểm này có những tên gọi gần như hoàn toàn mới trong hệ thống hành chính cấp xã đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Đó là lần đầu tiên, một số danh nhân của Điện Bàn, Quảng Nam cũng như trong nước được đưa vào hệ thống tên xã như: Như Xương (cụ Phạm Như Xương), Cao Thắng, Hoàng Diệu, Quý Cáp (cụ Trần Quý Cáp), Thái Học (cụ Nguyễn Thái Học)… Đây là một sự tri ân, tôn vinh hoàn toàn khác biệt của chính quyền cách mạng đối với những người có công với đất nước. Trong khi ở chế độ phong kiến, mỗi một triều vua, chúa được lập nên, không chỉ là tên gọi làng xã, mà ngay cả văn từ cũng không được phạm vào tên húy của vua, chúa, hoàng hậu…và phải cải đổi thành cách gọi chệch khác.
Một điều lý thú nữa, là trong các tên gọi liên quan đến địa danh thời điểm này, có xã Hoằng Hóa, được lập ra từ việc sáp nhập các làng Đa Hòa, Thanh Long, Điện Hòa, An Quyến. Lẽ nào, nghĩa tình son sắt “Hoằng Hóa - Điện Bàn” được ký kết trong kháng chiến chống Mỹ, ngày 20/7/1963, đã có duyên “tiền định” từ gần 20 năm trước!
Một chút tiếc nuối khi các tên gọi các xã trên chỉ tồn tại được 3 năm. Tháng 11/1948, huyện Điện Bàn hợp xã lần thứ hai, từ 37 xã thành 11 xã bắt đầu với chữ “Điện”. Cách gọi này được chính quyền cách mạng nhất quán xuyên suốt hai cuộc kháng chiến. Ở thời điểm năm 1965, sau khi giải phóng được một số vùng trên địa bàn, phía ta tạm phân chia Điện Bàn thành 5 vùng: A, B, C, K, V gồm 26 xã, cũng bắt đầu với chữ “Điện”. Về phía chính quyền Ngụy, năm 1963, Điện Bàn gọi là Quận, chia thành 4 khu: Thanh Quýt, Vĩnh Điện, Kỳ Lam và Phù Kỳ. Khu Thanh Quýt gồm 6 xã bắt đầu với chữ “Thanh”, khu Kỳ Lam gồm 5 xã bắt đầu với chữ “Kỳ”, khu Vĩnh Điện gồm 5 xã với chữ “Vĩnh” và khu Phù Kỳ có 6 xã bắt đầu với “Phú”.
Sông Vĩnh Điện
Riêng với tên gọi “Vĩnh Điện”, theo sách Đại Nam thực lục, năm Giáp Thân (1824), vua Minh Mạng cho đào mở rộng sông Câu Nhí: “Xứ ấy có con sông nhỏ, từ xã Cẩm Sa (dài hơn 1.640 trượng), đường nước nông hẹp, sai Cai bạ Lê Đại Cương đốc suất 3.000 dân trong hạt để đào cho rộng ra. Người làm việc được cấp hậu tiền gạo (mỗi người mỗi tháng cấp tiền 3 quan, gạo 1 phương). Đào hơn 2 tháng thì xong. Cho tên là sông Vĩnh Điện. Cầu sông ấy cũng gọi là cầu Vĩnh Điện”. Năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng sai đúc 9 chiếc đỉnh đồng - gọi là Cửu đỉnh - đặt trước sân Thế Miếu để tỏ ý mong đế nghiệp triều Nguyễn muôn năm bền vững. Trong những hình tượng khắc trên Cửu đỉnh, trên Dụ đỉnh có hình sông Vĩnh Điện (Vĩnh Điện hà). Tấm bia khắc chữ “Vĩnh Điện kiều” (cầu Vĩnh Điện) hiện đang được lưu giữ ở Bảo tàng Điện Bàn. Thế nhưng, khu hành chính mang tên Vĩnh Điện thì đến năm 1963 mới xuất hiện về phía chính quyền Ngụy. Sau giải phóng, đến năm 1981, Vĩnh Điện được tách ra từ xã Điện Minh và chính thức lập thành thị trấn, nay là phường trung tâm của thị xã Điện Bàn.
Thời gian mãi miết trôi, Điện Bàn hôm nay đang là thị xã với 12 phường, 8 xã với 140 thôn, khối phố. Mỗi một tên gọi quê xứ đều ẩn chứa sự huyền diệu của tình đất, tình người, neo giữ tâm hồn để những người con phương xa quay về nguồn cội!