Nhưng với tiết tháo cương trực, tấm lòng tận trung được hun đúc bởi tư duy đổi mới và lòng yêu nước nhiệt thành, nên những tấu sớ mà Phạm Phú Thứ dâng lên vua Tự Đức vẫn có văn phong rất riêng và có giá trị lịch sử, tư tưởng quý giá.
Năm 1850 khi đang khởi đầu chặng đường quan lộ đầy triển vọng, Phạm Phú Thứ đã làm kinh động triều đình Huế với bản tấu can gián Tự Đức - vị vua trẻ vừa mới lên ngôi ham vui ca xướng, xao lãng công việc triều chính. Theo Đại Nam liệt truyện, một dạng quốc sử của triều Nguyễn sau này nhận xét: “…lời lẽ trong tờ tấu không còn biết kiêng sợ”. Đấy cũng là duyên do khiến Phạm Phú Thứ bị cách hết chức vụ, đày đi làm phu cắt cỏ cho ngựa tại trạm dịch Thừa Nông phía nam kinh thành Huế. Nhưng nổi bật là từ năm 1864 sau khi đi sứ sang Pháp về rồi lần lượt nhận các trọng trách Thượng thư bộ Hộ (tương tự bộ Tài chính hiện nay), bộ Binh…, Phạm Phú Thứ đã viết một loạt các tờ tấu đề nghị triều đình thi hành các cải cách trên các lĩnh vực giáo dục, kinh tế và tăng cường binh bị… để thoát họa xâm lăng. Về giáo dục, ông mạnh mẽ phê phấn lối học khoa cử, rập khuôn Trung Hoa làm thui chột hết người tài của đất nước, rằng: “Văn hiến nước nhà sinh sản nhân tài rất nhiều, nếu cứ dạy riêng một thứ dùng sách vở, thơ văn Trung Quốc, quá câu nệ về văn lý thì sợ rằng không thu dụng hết nhân tài”. Ông cũng phê phán kịch liệt thái độ thiển cận, kỳ thị, xem thường văn minh phương Tây của tầng lớp nho sĩ hủ lậu đương thời: “Các quan, nho sĩ nhiều kẻ lấy sự văn minh, man dã mà kỳ thị, đóng cửa không thèm tiếp khách, thành kiến cố chấp, chỉ biết có mình mà không biết trời đất lớn như thế nào…”. Ông đề nghị cần phải xây dựng những bộ sách, sử, địa lý, luật pháp, hội điển riêng của quốc gia, xây dựng học đường, tuyển chọn học trò, tổ chức khoa thi để thu dụng người tài. Ông còn đề nghị lập khoa thủy học, thuyền chính tuyển dụng thanh niên thông minh, khỏe mạnh vào học để xây dựng thủy quân và đội thương thuyền, cho nghiên cứu xác lập các hải trình trên vùng biển nước ta và các nước lân cận nhằm phát triển kinh tế, bảo vệ biển đảo quốc gia. Nhận thấy tầm quan trọng của ngoại ngữ nên ông đề nghị tổ chức dạy tiếng Anh, Pháp, Xiêm (Thái Lan), Cao Miên (Cam pu chia) cho một bộ phận quan lại hữu quan để tiện giao thiệp với nước ngoài và để nắm rõ tình hình các nước lân bang…
Chân dung Phạm Phú Thứ
“Cái yếu quyết làm cho quốc gia được mạnh mẽ, không gì lớn bằng đầy đủ binh bị, yếu quyết sinh tài không gì hay bằng nhân lên mối lợi”. Với quan niệm đó, từ đầu năm 1865 Phạm Phú Thứ liên tục dâng lên vua Tự Đức các đề nghị cải cách kinh tế như phát triển thủy lợi để phục vụ nông nghiệp, khuyến khích các nghề thủ công làm cho dân giàu nước mạnh, mở cảng biển Hải Ninh thuộc tỉnh Hải Dương cho tàu thuyền nước ngoài vào buôn bán, đẩy mạnh khai mỏ, cho phép thương nhân người Hoa được xuất khẩu gạo để chống buôn lậu lại thu được thuế, bỏ lệ thu phí tuần ty, tức phí vận chuyển hàng hóa trên sông, ven biển để chống nhũng nhiễu, đặt các sắc thuế nấu rượu, đánh bạc nhằm chống lãng phí, tệ nạn xã hội. Ông cũng đề xuất một chính sách mang tầm chiến lược là lập các đồn điền, mở chợ búa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền Tây Nghệ An, Quảng Trị, Bình Định, Hưng Hóa tức Điện Biên ngày nay, cho lập lại chính sách thế tập tù trưởng… để vừa làm kinh tế đồng thời để củng cố căn cứ kháng chiến khi đất nước lâm sự. Ông thuyết phục vua Tự Đức cho thi hành các cải cách để cứu vãn tình thế đất nước với lời lẽ rất thiết tha: “… không nên tiếc phí tổn thực sự, cứ để cho hai bộ (bộ Hộ, bộ Binh – người viết) được hết lòng thi hành phát triển, ba năm công việc xong xuôi, sáu năm sẽ thấy hiệu quả ứng nghiệm”.
Về ngoại giao, Phạm Phú Thứ cho rằng trong tình thế binh lực của ta quá yếu cần hòa hoãn với Pháp và học tập Xiêm La bằng cách mở cửa thông thương với các nước phương Tây để xóa thế bị cô lập trên trường quốc tế. Trong bản tấu vào tháng 11 năm 1867, ông viết: “…lấy cái lợi ích của các nước lại thông thương buôn bán, sáng tỏ biện pháp hiện thời của các nước Xiêm La, Đại Thanh để phồn thịnh tài nguyên nước nhà để nuôi dưỡng ở bên trong, được anh em bạn bên ngoài để cho người ta muốn giúp đỡ bang giao thông hiếu”. Đến tháng 11 năm 1873 lại đề xuất tìm kiếm con đường thiết lập quan hệ với chính phủ các nước Anh, Phổ để phá thế áp chế của Pháp: “Nếu Anh Phổ mà đều mưu đồ vì ta thì binh của ta đã mạnh, vũ khí cũng đã lợi hại. Nếu họ muốn giúp ta nhiều thì trong ngoài hợp ứng, thì ta hết sức đè nén cái quyền của Pháp bằng cách đó”. Khác với chính sách cấm đạo Thiên Chúa giáo gay gắt của triều Nguyễn, một trong những nguyên nhân làm khủng hoảng khối đại đoàn kết dân tộc trong thế kỷ XIX, Phạm Phú Thứ có cái nhìm cởi mở và tinh thần khoan dung tôn giáo rõ rệt. Ông cho rằng đạo Gia tô bây giờ đã lan khắp Âu Á nên cần phải có chính sách quản lý khôn khéo, thích hợp đồng thời cương quyết ngăn chặn các âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá triều đình.
Tổng cộng đã có 11 bản tấu trình và 20 lá thư mang nội dung cải cách được Phạm Phú Thứ gửi lên vua Tự Đức và các quan đại thần. Thế nhưng Tự Đức - một ông vua thông minh nhưng rụt rè lại vấp phải sự chống đối quyết liệt của các quan đại thần Cơ mật viện đầu óc thiển cận, sợ mất quyền lợi nên rốt cuộc các đề nghị canh tân của Phạm Phú Thứ hay Nguyễn Trường Tộ, Đinh Điền… đều bị bác bỏ hoặc chỉ thực thi nửa vời, mặc cho thời cơ trôi qua và tình thế đất nước ngày thêm nguy khốn. Trong bối cảnh ấy Phạm Phú Thứ ngày càng sốt ruột và lo lắng cho vận mệnh quốc gia. Có thể thấy rõ tâm trạng đau đớn của ông qua một tờ tấu gửi vua Tự Đức: “Bây giờ quốc sự ngày một xấu đi… Ở vào các nước khác gặp phải công việc, tình trạng như thế đều có thể duy trì yên ổn, còn mình đây lại không thế, đột nhiên nửa đêm một mình đứng dậy nổi giận đùng đùng, có khi ngồi một mình lặng lẽ rớt nước mắt, vừa giận vừa khóc không biết nói gì…”.
Đọc các bản tấu của Phạm Phú Thứ ta cũng hiểu thêm tấm lòng yêu nước sắc son, những nỗ lực gánh vác trọng trách quốc gia của cụ Phạm, bất chấp tấm thân già bệnh thường xuyên đau ốm phải uống thuốc bắc đến mức “xác thuốc đổ thành đống”. Qua đoạn tấu viết năm 1867 có thể hiểu Phạm Phú Thứ đã cố gắng xoay xở như thế nào để đắp đổi nền tài chính quốc gia kiệt quệ lúc cụ giữ chức Thượng thư bộ Hộ: “…Bộ Hộ ngày nay thiếu tiền của dùng, việc nhiều hơn trước. Việc thông thương ở miền Bắc manh mối chưa yên, việc bồi thường chiến phí trong Nam trải năm vẫn còn nhiều…việc trả tiền cho thợ, lo lương hướng nhất nhất lại chưa đầy đủ. Lại thêm sau cơn mất mùa đói kém, việc cứu giúp chẩn trị chưa yên, ngày đêm lo nghĩ”. Phải hiểu rằng, triều đình Huế sau khi mất vựa lúa lục tỉnh Nam Kỳ, lại phải bồi thường khoản chiến phí 3 triệu phơ-răng, số tiền rất lớn vào thời đó, trong khi đó miền Bắc thường xuyên vỡ đê lụt lội, mất mùa, giặc giã nổi lên như ong khiến ngân khố quốc gia ngày càng thâm thủng thì mới thấy hết tinh thần trách nhiệm, sự tận tụy của cụ Trúc Đường. Chả thế nên khi Viện Cơ mật triều đình nghị bàn đề xuất người gánh vác chức Thượng thư của cái bộ nêu trên chẳng ai dám nhận, để rồi cuối cùng chỉ có cụ Phạm với lòng tận trung với vua và tinh thần trách nhiệm với dân với nước đã dám đương đầu với công việc mà cụ cũng thừa nhận là “vượt sức” đó.
Nhưng rồi vì tấm lòng tận trung phò vua giúp nước ấy mà cụ Phạm bị xếp vào phe chủ hòa của triều đình Huế. Sự thật có phải vậy không? Tiến sĩ Nguyền Hoàng Thân, Đại học Sư phạm Đà Nẵng phân tích: “Do gắn bó quá sâu và trọn vẹn với triều đình Tự Đức nên cụ Phạm Phú Thứ một thời bị nhìn nhận là theo phe chủ hòa. Nhưng qua nghiên cứu các bản tấu của Phạm Phú Thứ, có thể khẳng định là không. Đường lối cứu nước của cụ có ba phần rất rõ ràng. Thứ nhất là do nước ta lạc hậu cả về kinh tế, binh bị nên trước mắt phải hòa hoãn với Pháp, không gây sự hiểu lầm gì thêm để chúng có cớ lấn tới chiếm nốt các phần lãnh thổ còn lại. Thứ hai là nhanh chóng đặt quan hệ ngoại giao, mở cửa làm ăn với các nước phương Tây, kể cả với Pháp để phồn thịnh tài nguyên nước nhà, nâng cao sức mạnh quân sự. Đến khi ta đủ mạnh sẽ đặt vấn đề với Pháp đề nghị đền bù kinh phí để họ rút khỏi những vùng đất đã chiếm. Nếu không được sẽ cáo yết với tôn miếu, xã tắc, bá cáo với dân chúng quyết không đội trời chung với giặc. Ông cũng phê phán đường lối chiến – hòa lúng túng của triều đình cũng như tư tưởng quyết đánh một trận dốc túi để tìm đến cái chết vẻ vang”.
Viếng thăm Lăng mộ cụ Phạm Phú Thứ tại làng Đông Bàn
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Tiếng – Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử thành phố Đà Nẵng cho rằng: “Đối với Phạm Phú Thứ, điều quan trọng không phải là chủ chiến hay chủ hòa mà quan trọng là bảo thủ hay đổi mới. Cứu nước theo cụ phải bằng con đường đổi mới canh tân. Đó là quan niệm đi trước thời đại”.
Phạm Phú Thứ, một nhân vật lịch sử tầm quốc gia cần tiếp tục được tìm hiểu thấu đáo. “Cụ Trúc Đường là tác gia lớn, một diện mạo rất riêng trên văn đàn Trung đại Việt Nam. Đó là một nhân cách lớn mà chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ, công bằng. Không phải chỉ để tôn vinh cụ một cách xứng đáng mà quan trọng hơn để rút ra những bài học bổ ích cho công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hôm nay”- PGS.TS Nguyễn Phong Nam, nguyên Giám đốc Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn, Đại học Sư phạm Đà Nẵng khẳng định./.