Theo địa bạ Gia Long lập năm 1814, khi xác định vị trí của Dinh trấn Quảng Nam có nhắc đến phường Chú Tượng Phước Kiều hay trong bộ điền thổ lưu tại đình làng La Qua, phủ Điện Bàn xưa có ghi: “Ông Dương Ngọc Soái, là người đại diện cho Chú Tượng Phước Kiều Phường tham gia lập và ký vào văn bản xác định ranh giới của làng Phước Kiều đối với làng La Qua lập ngày 12/6/1811”. Ngoài ra, tài liệu của các Giáo sĩ khi đến Thanh Chiêm cũng có ghi: “Năm 1614 Jean de Lacroix, người Bồ Đào Nha giúp Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên trông coi một xưởng đúc súng ở Đàng Trong...”.
Từ những cứ liệu trên, có thể khẳng định làng nghề đúc đồng Phước Kiều được hình thành từ một xưởng đúc từ những năm đầu của thế kỷ XVII. Sản phẩm ở giai đoạn này chủ yếu phục vụ cho Dinh trấn và đồ dùng trong sinh hoạt ở Hành cung chúa Nguyễn. Dưới thời Minh Mạng (1820-1840), triều đình đã đã huy động trên 60 lò đúc đồng trong cả nước về Huế để đúc Cửu đỉnh tại Thế miếu, gần 3 năm mới xong. Sau khi hoàn thành, một số thợ giỏi trong làng nghề Phước Kiều đã được phong "Cửu phẩm đội trưởng" như cụ Cửu Thuyên (Dương Ngọc Thuyên), Xã Mãi (Trần Tạo), Xã Diêm (Trần Diêm), Cửu Thìn (Trần Văn Niên). Thời kỳ này, sản phẩm chính của làng nghề chủ yếu là nồi bộ từ nồi một, nồi hai đến nồi 10 (mỗi bộ có từ 6 đến 10 cái) kể cả nồi bung 4 quai, thể tích đến 50 lít, chiêng dùng cho cúng tế (thanh la - phèng la), đại hồng chung và tiểu hồng chung, kiểng, tạ 6, tạ 8 và bán cho miền núi là loại chiêng bằng đường kính từ 46 - 50 cm.

Làm khuôn đúc đồng Phước Kiều
Tuy nhiên, sản phẩm chủ yếu của làng đúc Phước Kiều là các loại nhạc cụ cồng chiêng dùng trong nghi lễ của đồng bào dân tộc thiểu số Trường Sơn - Tây Nguyên. Và cũng nhờ vào loại sản phẩm đặc thù này, các nghệ nhân nhiều thế hệ của làng đã tạo được thương hiệu, cùng sánh vai với các làng nghề thủ công trong cả nước. Cồng chiêng sản xuất ở Phước Kiều là sản phẩm được ưa chuộng nhất ở Miền Trung và đến cả miền Nam, bởi người thợ biết kỹ thuật thẩm âm rất độc đáo để tiếng cồng chiêng hợp với thang âm điệu thức của từng dân tộc. Để làm được như vậy, những người thợ làng nghề Phước Kiều đã phải đến từng tộc người vùng Trường Sơn - Tây Nguyên để nghe âm thanh cồng chiêng rồi về làm mẫu ra âm thanh, đây chính là bí quyết của cồng chiêng Phước Kiều.
Theo Nghệ nhân Ưu tú Dương Ngọc Tiển, đầu thế kỷ XX, ông Trần Bính, người làng Phước Kiều, sinh sống ở Trà Kiệu, Duy Xuyên là người đặt hàng cồng chiêng đầu tiên để đưa lên Tây Nguyên trao đổi. Sau thành công đó, từ năm 1930 đến năm 1945 rất nhiều gia đình trong làng đã sản xuất nhiều loại cồng chiêng khác nhau từ đồ gõ cho đến đồ tiếng như: Chuyên sản xuất đồ gõ có ông Biện Ngô (Nguyễn Bá Cải); ông Miên (Nguyễn Bá Xuyên); ông Trùm Trợ (Dương Giao); ông Xã Bốn (Trần Đức); ông Phẩm Đạo (Trần Nho); ông Hồ (Trần Đực); ông xã Tánh (Phan Tự); ông Quảng, ông Xáng (Dương Lạng); ông Hợi (Phan Bàn); Chuyên sản xuất đồ đôi, đồ vỗ, có ông Dương Lệ, ông Hương Tùng (Trần Tùng), ông Tư Dung, ông Xã Chín (Dương Ngọc Tiếp), ông Đáng (Dương Xứng); Chuyên sản xuất đồ gõ, tạ có ông Hương Tới (Trần Tiếp); Chuyên sản xuất chiêng núm có ông Hương Tiến, ông Hương Dấn, ông Hương Sang (Trần Huề), ông Trần Lực, Dương Cam, Dương Thiếp, Tư Tý (Dương Đờn). Thành quả đạt được của giai đoạn này khá lớn, số lượng cồng chiêng bán ra cho các tỉnh từ Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Nam - Ngãi - Bình - Phú lên đến Tây Nguyên và vào Nam Trung bộ của hơn 20 nhà lò trong làng đã bán ra trên 100.000 chiếc. Thời kỳ này, nghề buôn bán cồng chiêng không chỉ thu hút dân làng Phước Kiều mà cả những người vùng khác như Đaklak có ông Thủ Thị (ông Phạm Di), ông Thung (Nguyễn Bá Dư); ở Trung Phú - Điện Minh có ông Song, ở Bà Rén có ông Tảo (Lê Trước). Khánh Hòa có hiệu buôn Thành Ký, ông Nguyễn Đợt ở Ninh Hòa, Đaklak và kể cả ông Kon Rim là thương lái người Campuchia.
Sau Cách mạng tháng Tám, từ 1946 đến 1954, Điện Bàn là vùng Pháp tạm chiếm, người dân làng nghề đã di tản đến các vùng tự do ở Khánh Mỹ, Chiên Đàn, Tam An, Tam Kỳ như ông Thám, ông Trùm Trợ, ông Chậm, ông Nhi, ông Hương Tới, còn một số đi nơi khác như ông Phẩm Đạo ra Vĩnh Điện, Điện Bàn. Các cụ cao tuổi trong làng kể rằng ông Phẩm Đạo là người theo đạo Kitô nên không vào vùng tự do mà ra Vĩnh Điện sinh sống và đúc cồng chiêng, còn một số gia đình khác thì đi vào vùng Tam An, Tam Kỳ, nhờ vào sự thuận lợi là ở vùng này đa số có bà con thân thuộc với Phước Kiều đã vào đây sinh sống sau khi Pháp tấn công Đà Nẵng 1858. Vào giai đoạn này, giao thông đi lại rất khó khăn nên cồng chiêng chủ yếu bán ở vùng Quảng Nam và liên khu 4 - Bình Trị Thiên. Nhưng từ 1955 đến 1961 là thời kỳ thịnh vượng nhất ở Phước Kiều, người người làm cồng chiêng, cả làng đi buôn cồng chiêng, vì đối với thương nhân thì cồng chiêng là loại hàng siêu lợi nhuận cho nên lúc nào cũng trong tình trạng thiếu hàng và các chủ đầu nậu tìm mọi cách để giữ hàng ở các chủ lò. Do lượng cung không đủ cầu nên hàng cồng chiêng bán rất chạy, lúc đó, giá trị của một bộ chiêng bằng 6 chiếc khoảng gần 10 cây vàng! Thậm chí có người dân tộc xuống tại làng đổi bạc trắng để lấy cồng chiêng. Theo những cao tuổi trong làng đây là thời kỳ hàng cồng chiêng tương đối khan hiếm và đắt đỏ, sản phẩm của làng nghề làm ra không đủ để đáp ứng nhu cầu của người mua. Giai đoạn này có bà Cai Lang ở Hội An thường đến Phước Kiều đặt hàng để đưa lên Phú Bổn (AyunPa - Gia Lai), sau đó có ông Khai, ông Mách và ông Kon Rim, người Campuchia; bà Chín Thiện. Trong thời kỳ này, người thợ Phước Kiều phải làm từ rất sớm, sáng 3h dậy để đúc, cào gọt, dãy chiêng, lận tiếng đến tận đêm khuya nhưng vẫn không đủ hàng để bán. Đây là thời kỳ các nhà lò không chuyên cũng tham gia sản xuất và số nhà lò và thợ làm cồng chiêng tại làng nghề từ 10 nhà lò với hơn 30 thợ, thì đã tăng lên đến trên 40 nhà lò và gần 150 thợ. Những nhà lò mới ra đời như lò 5 người của ông Nga (Nguyễn Bá Miên), ông Thung (Lê Bá Dư), ông Bướm (Trần Lang, con Trần Đực), ông Thời (Dương Dần) đúc tại nhà ông Thung; lò 4 người của ông Dương Ngọc Ngũ, ông Ảng (Dương Ngọc Ảng), ông Mười Ân (Dương Ân), ông Quan (Trần Tam, cháu nội xã Mãi) đúc tại vườn nhà ông Quan. Các lò nhỏ hơn là lò ông Nhi (Dương Nhi), ông Vọng (Nguyễn Dư), ông Đồng (Nguyễn Bông), ông Sinh, ông Ký (Huỳnh Phi), ông Sáu Vạn (Trần Vạn), ông Lanh (Trần Tới), ông Ri (Dương Phong), ông Ba Tuyên, ông Tám Ái (Nguyễn Ái), ông Dân (Dương Đáng), ông Bảy Tòng (Huỳnh Phương Tòng), Nguyễn Được, Dương Ngọc Soạn. Ngoài ra, những nhà lò không phải của làng Phước Kiều cũng mọc thêm như lò của ông Lê Bá Nhâm, ông Trần Bì... Ngoài ra còn có một số nhà lò do phụ nữ đứng lên làm chủ như bà Nguyễn Thị Phán (bà Á) với 2 cô Dương Thị Á (Kiện) và Dương Thị Em; bà Dương Thị Phùng - Dương Thị Lỳ (con ông Chậm). Thời kỳ này thu hút rất nhiều người ở những làng lân cận đến học nghề chế tác cồng chiêng. Đây là giai đoạn dân làng Phước Kiều buôn bán và chế tác cồng chiêng cho vùng Tây Nguyên với số lượng khá lớn và trong một thời gian dài. Thời kỳ này, tính bình quân mỗi tháng ở làng nghề xuất đi bằng gửi xe khách, máy bay khoảng 40 đến 50 giỏ hàng, mỗi giỏ 5 bộ, trong thời gian 6 năm thì con số cồng chiêng đưa lên vùng Tây Nguyên trên 15.000 bộ. Nhờ việc buôn bán cồng chiêng lên Tây Nguyên mà dân trong làng đã làm nhiều nhà xây, trong khi chung quanh là nhà phên tre, phên đất. Nổi tiếng nhất là các ngôi nhà bề thế của ông Hương Dấn, ông Hương Sang, ông Đồng, ông Phẩm Đạo, ông Vạn, ông Hương Tới, ông Trùm Trợ, ông Thám, ông Tám Ái, ông Năm Nhi, ông Chậm, ông Ri, ông Xướng, ông Sáng, ông Ký, ông Dân, ông Nga...

Lửa Đồng
Sau thời hưng thịnh là giai đoạn đình trệ do những bất ổn chính trị ở miền Nam vào các năm 1961-1963. Sau năm 1964 thì làng nghề mới hoạt động trở lại, nhưng đến 1968 với biến cố tết Mậu Thân nên người dân làng nghề phải tản cư đi nhiều nơi, việc sản xuất lại rơi vào tình trạng hiu hắt, chỉ còn một vài nhà lò sản xuất cầm chừng như lò ông Vọng, ông Nhi, ông Thám, ông Ri, bà Phùng, ông Ảng, ông Dân, ông Mười Xin, ông Tám Ái, Mười Âu, ông Thời, ông Bốn Lợi (Nguyễn Lợi). Ở thời kỳ này, đa số thợ làng nghề chuyên sâu hàng cồng chiêng đánh bằng tay (đồ vỗ, bộ 6 chiếc) cho vùng Tuyên Đức, Bảo Lộc (Lâm Đồng); riêng vùng Quảng Đức (Đắc Nông ngày nay) vì giao thông khó khăn cho nên phải bán qua trung gian của dân tộc Kơ’ho (Lâm Đồng) từ đây cồng chiêng lại đi đến các vùng phụ cận như: Bù Lơ, Bù Đek (Bình Phước); Ninh Sơn, Bác Ái (Ninh Thuận) xuống Khánh Sơn, Khánh Vĩnh (Khánh Hòa). Từ 1968 đến 1975 là thời kỳ chiến tranh ác liệt nên dân làng nghề chỉ có một số ít ở lại, các lò như ông Ri (Dương Phong) vào Đaklak năm 1969, ông Thám, ông Nhi ra Đà Nẵng để làm ăn. Cũng từ đó, chấm dứt một thời hưng thịnh huy hoàng trong sản xuất và buôn bán cồng chiêng ở làng Phước Kiều.
Sau giải phóng, năm 1979, toàn bộ dân làng nghề phải vào hợp tác xã và cồng chiêng trở thành mặt hàng không được bán trên thị trường, cho nên họ chuyển sang sản xuất đồ dân dụng. Đây là giai đoạn làng nghề rơi vào tình trạng bi đát nhất, cuộc sống dân làng nghề gặp rất nhiều khó khăn. Cho đến 1987, thời kỳ mở cửa, không khí sản xuất trong làng lại rộn rã, nhưng chỉ kéo dài khoảng 2 năm, cả làng sản xuất không hơn 1000 đơn vị cồng chiêng, chủ yếu bán cho dân tộc Càdong, Cor vùng Trà My và Quảng Ngãi, dân tộc Bru - Vân Kiều (Quảng Trị), Tà Ôi (Thừa Thiên - Huế), một số lượng ít bán cho dân tộc Xtiêng vùng Sông Bé cũ (Bình Phước), Raglai (Ninh Thuận, Khánh Hòa). Đây là giai đoạn phát triển chậm nhưng cũng đã có một vài nhà lò mới ra đời sau năm 1985 như: Lò ông Dương Ngọc Thơm, Dương Ngọc Đào, Dương Ngọc Sang (Chín Sang), Dương Ngọc Tiển, và tổ hợp (Dương Ngọc Đình, Dương Thị Em, Dương Ngọc Tân), Nguyễn Vọng. Đến năm 1990 có thêm các lò Dương Nhựt, Dương Quốc Thuần, Dương Minh, Dương Ngọc Dũng, Nguyễn Y, Nguyễn Còn. Từ năm 2000 đến nay, làng nghề đã đã phục hồi trở lại, nhưng thời hoàng kim chế tác cồng chiêng xưa đã trở thành ký ức hoài niệm./.