Nội dung chi tiết

Danh sách tên đường thị xã Điện Bàn
Tác giả: UBND Điện Bàn .Ngày đăng: 01/01/2000 .Lượt xem: 28415 lượt. [In bài]
Tiểu sử tóm tắt Danh nhân đặt tên đường tại thị trấn Vĩnh Điện (nay là phường Vĩnh Điện) đã được thông qua theo Nghị quyết số 29/22011/NQ - HĐND, ngày 9/1/2011 của HĐND tỉnh Quảng Nam

1. Đường Trần Nhân Tông
            Quốc lộ 1A cũ, có điểm đầu là cầu Giáp Ba; điểm cuối giáp xã Điện Minh; đường bê tông nhựa; lề bê tông; chiều dài 1645m; mặt đường rộng 10.5m, mốc lộ giới 17.5m.
- Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.
Tiểu sử Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (1258 - 1308): vị vua thứ ba triều Trần, con trưởng vua Trần Thánh Tông. Ông lên ngôi năm 1278, cùng với triều đình hai lần đánh bại quân Nguyên Mông xâm lược (năm 1285 và 1287).

Năm 1293, ông nhường ngôi cho con là Trần Thuyên (tức Anh Tông), làm Thái thượng hoàng. Đến năm 1299, ông lên núi Yên Tử ẩn tu, khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Năm 1306, Thượng hoàng Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chăm pa là Chế Mân; đổi lại, Chế Mân nhường vùng đất thuộc châu Ô, châu Lý (từ Nam Quảng Trị đến Bắc sông Thu Bồn ngày nay) cho Đại Việt.

Ngày 3-10 Mậu Thân, ông mất tại Yên Tử, hưởng dương 50 tuổi.

            2.Đường Trần Quý Cáp.

            Đường ĐT 609, có điểm đầu là Bãi cát ông Trịnh; điểm cuối giáp đường Trần Nhân Tông; đường bê tông nhựa; lề bê tông; chiều dài 984m; mặt đường rộng 6m; mốc lộ giới 10m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng

            Tiểu sử Trần Quý Cáp.

Trần Quý Cáp (1870 - 1908): tự Dã Hàng, Thích Phu, hiu là Thai Xuyên; quê ở làng Bất Nh, nay là xã Điện Phước, huyện Đin Bàn, tnh Qung Nam. Lúc tui trẻ, ông đã ni tiếng là mt người thông minh, học giỏi; đỗ Tiến sĩ năm 1904 nhưng không ra làm quan mà tham gia phong trào Duy Tân chng Pháp.

Nhân vụ chống thuế ở Trung kỳ năm 1908, thực dân Pháp đã xử chém ông tại Khánh Hoà.

            3. Đường Lê Quý Đôn. :

Đường ĐT 608, có điểm đầu giáp Quốc lộ 1A (tuyến tránh Vĩnh Điện); điểm cuối là Cống Chui; đường bê tông; lề bê tông; chiều dài 1093m; mặt đường rộng 7.5m; mốc lộ giới 9m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cống ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử Lê Quý Đôn.

 Lê Quý Đôn (1726 - 1784) tên thật Lê Danh Phương,m quan thời Hậu Lê, đồng thời là một nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực. Quê ở làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Đồng Phú, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

           4. Đường Mẹ Thứ:

            Đường khu dân cư, có điểm đầu giáp đường Trần Nhân Tông; điểm cuối giáp đường Lê Quý Đôn; đường bê tông nhựa; lề bê tông; chiều dài 787m; mặt đường rộng 10.5m; mốc lộ giới 17.5m

Tiểu sử Mẹ Thứ

Mẹ Thứ (1904 - 2010): tên thật là Nguyễn Thị Thứ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, sinh năm 1904 tại làng Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Mẹ có chồng, 9 người con trai, 1 con rể và 1 cháu là liệt sĩ, là người mẹ có nhiều con cháu hy sinh nhất trong các cuộc kháng chiến. Mẹ bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu, được lấy làm nguyên mẫu xây dựng tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng tại xã Tam Phú, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Mẹ mất ngày 10 tháng 12 năm 2010.

            5. Đường Phan Thúc Duyện :

            Đường khu dân cư, có điểm đầu là nút giao thông A (theo bản đồ), điểm cuối giáp đường Trần Nhân Tông; đường thảm nhựa; lề bê tông; chiều dài 471m; mặt đường rộng 11m; mốc lộ giới 21m.

- Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

          Tiểu sử Phan Thúc Duyện

         * Phan Thúc Duyện (1873 – 1944): Sĩ phu yêu nước; quê ở làng Phong Thử, nay thuộc xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn; đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý (1900) nhưng không ra làm quan mà cùng với một số sĩ phu yêu nước tham gia phong trào Duy Tân, lập các Thương hội, Nông hội nhằm phát triển kinh tế. Nhân phong trào chống thuế của nhân dân Quảng Nam (1908), ông bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo.

            Ông mất năm 1944 tại quê nhà. 

            6. Đường Nguyễn Phan Vinh:

           Đường khu dân cư Phố Chợ; có điểm đầu giáp đường Phan Thúc Duyện, điểm cuối giáp đường Trần Quý Cáp; đường thảm nhựa; lề bê tông; chiều dài 336m; mặt đường rộng 7,5m; mốc lộ giới 13,5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

             Tiểu sử Nguyễn Phan Vinh

          Nguyễn Phan Vinh (1933 – 1968): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, quê ở xã Điện Nam, huyện Điện Bàn; là thuyền trưởng tàu 235 của đường Hồ Chí Minh trên biển chuyên chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Ông hy sinh năm 1968, trong một trận chiến đấu không cân sức với kẻ thù trên biển. Ngày nay, tên của ông đã được đặt cho một hòn đảo trong quần đảo Trường  Sa.

             7. Đường Phạm Khôi:

            Đường khu dân cư Phố Chợ; điểm đầu giáp đường Phan Thúc Duyện; điểm cuối giáp đường Nguyễn Phan Vinh; đường thảm nhựa; lề bê tông; chiều dài 519m; mặt đường rộng 7.5 m; mốc lộ giới 13.5 m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng

           Tiểu sử Phạm Khôi:

            * Phạm Khôi (1917 – 1987): tức Mười Khôi, nguyên Bí thư Huyện uỷ Điện Bàn, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam – Đà Nẵng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; sinh ngày 4-4-1917 tại làng Châu Bí, xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn. Đồng chí là người có nhiều đóng góp trong lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân Quảng Nam – Đà Nẵng. 

             8. Đường Nguyễn Duy Hiệu:

            Đường khu dân cư Phố Chợ; điểm đầu giáp đường Nguyễn Phan Vinh; điểm cuối giáp đường Trần Nhân Tông; đường lát gạch Blooc; chiều dài 152m; mặt đường rộng 16.5m; mốc lộ giới 18.5m. 

               - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

              Tiểu sử Nguyễn Duy Hiệu.

            * Nguyễn Duy Hiệu (1847-1887): còn có tên Nguyễn Hiệu, tục gọi Hường Hiệu; quê ở làng Thanh Hà, phủ Diên Phước (nay là phường Thanh Hà, thành phố Hội An); từng thi đỗ Phó bảng dưới triều Tự Đức và được sung chức Giảng tập tại Dưỡng Thiện Đường. Năm 1885, ông cùng Trần Văn Dư, Phan Bá Phiến thành lập Nghĩa Hội ở Quảng Nam. Năm 1887, Nghĩa Hội thất thủ, ông bị bắt và bị xử chém ở pháp trường An Hòa (Huế) 

             9. Đường Cao Sơn Pháo:

            Đường khu dân cư Phố Chợ; điểm đầu giáp đường Phan Thúc Duyện, điểm cuối giáp điểm N (theo bản đồ); đường thảm nhựa; lề bê tông; chiều dài 650m; mặt đường rộng 11m; mốc lộ giới 33m.

             - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

            Tiểu sử Cao Sơn Pháo

            *Cao Sơn Pháo: Nguyên Bí thư Phủ uỷ lâm thời phủ Điện Bàn, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam – Đà Nẵng; sinh năm 1922, tại làng Thái Sơn, xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn. Qua hai cuộc kháng chiến, đồng chí đã giữ những chức vụ chủ chốt của Quảng Nam - Đà Nẵng, từ Phó Bí thư Tỉnh ủy đến Bí thư Tỉnh ủy. Sau năm 1954, đồng chí được Đảng phân công ở lại lãnh đạo đấu tranh chống Mỹ ở Quảng Nam - Đà Nẵng.

            Đồng chí hy sinh năm 1956.

            10. Đường Hoàng Diệu:

            Đường trung tâm hành chính; có điểm đầu giáp đường Trần Nhân Tông; điểm cuối giáp đường Lê Quý Đôn; đường thảm nhựa; lề lát gạch Blooc; chiều dài 1153m; chiều rộng 15 m; mốc lộ giới 23.5 m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

            - Tiểu sử Hoàng Diệu.

         * Hoàng Diệu (1828 – 1882): Đại thần triều Nguyễn; quê ở làng Xuân Đài, nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Năm 26 tuổi, ông đỗ Phó Bảng (1853); từng giữ nhiều trọng trách dưới thời Nguyễn: Tuần vũ Quảng Nam, Tổng đốc An Tĩnh, Tổng đốc Hà Ninh, Thượng thư Bộ Binh…

            Năm 1882, khi thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội, ông đã chỉ huy quân sĩ chiến đấu đến cùng. Kinh thành thất thủ, ông tuẫn tiết. 

           11. Đường Phan Thành Tài:

            Đường bờ kè phía Đông (khối phố 2); có điểm đầu giáp đường Trần Nhân Tông; điểm cuối là mộ chí sỹ Phan Thành Tài; đường bê tông; lề bê tông; chiều dài 294m; mặt đường rộng 5.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống cấp thoát nước và điện chiếu sáng

            Tiểu sử Phan Thành Tài.

            * Phan Thành Tài (1878 – 1916): Nhà yêu nước; quê làng Bảo An, nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Ông là một trong những nhân vật trọng yếu của cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916. Khởi nghĩa bị bại lộ, ông bị bắt giải về Vĩnh Điện và bị hành quyết ngày 09/6/1916. 

             12.Đường Trần Cao Vân:

            Đường Cống Hậu (khối phố 3); có điểm đầu giáp đường Phan Thành Tài, điểm cuối giáp đường Mẹ Thứ; đường thảm nhựa; chiều dài 882m; mặt đường rộng 7.5m; mốc lộ giới 13.5m; lề bê tông.

             - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

             - Tiểu sử Trần Cao Vân.

            * Trần Cao Vân (1866 – 1916): Nhà yêu nước; quê ở làng Tư Phú, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Ông từng tham gia các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Năm 1916, ông cùng Thái Phiên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt, bị thực dân Pháp kết án tử hình và xử chém cùng với nhiều đồng chí tại An Hòa (Huế). 

            13.  Đường Tuệ Tĩnh:

           Đường khu dân cư, có điểm đầu giáp đường Trần Nhân Tông; điểm cuối giáp đường Trần Cao Vân; đường thảm nhựa; chiều dài 295 m; mặt đường rộng 5.5m; mốc lộ giới 6.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống cấp thoát nước.

            Tiểu sử Tuệ Tĩnh.

            * Tuệ Tĩnh: Thiền sư, danh y thời Trần; tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông từng thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) nhưng không ra làm quan. Ông có công xây dựng nền y học dân tộc, được tôn vinh là “Việt Nam y thánh”.  

           14.  Đường Phạm Phú Thứ :

           Đường khu dân cư (khối phố 3), có điểm đầu giáp đường Tuệ Tĩnh, điểm cuối giáp xã Điện Minh; đường thảm nhựa; lề bê tông; chiều dài 912m; mặt đường rộng 7.5m; mốc lộ giới 13.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

Tiểu sử Phạm Phú Thứ.

Phạm Phú Thứ (1820 – 1882): Đại thần triều Nguyễn, quê tại làng Đông Bàn, huyện Diên Phước, nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn; là người thông minh, học giỏi, từng đỗ đầu các kỳ thi Hương và thi Hội; Thượng thư Bộ Hộ, Tổng đốc Hải Yên thời vua Tự Đức; là người có tư tưởng canh tân đất nước. Ông mất ngày 5/2/1882.

            15. Đường Duy Tân:

            Đường khu dân cư (khối phố 3), có điểm đầu giáp đường Hoàng Diệu; điểm cuối giáp xã Điện Minh; chiều dài 809m; đường thảm nhựa; lề bê tông; mặt đường rộng 7.5m; mốc lộ giới 13.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

            -Tiểu sử Duy Tân.

- Duy Tân: tên của phong trào yêu nước do Phan Châu Trinh đề xướng vào đầu thế kỷ XX tại Quảng Nam, sau đó lan ra cả nước với mục đích “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” nhằm canh tân đất nước.

             16. Đường Hoàng Hữu Nam:

            Đường khu dân cư (khối phố 3), có điểm đầu giáp xã Điện Minh, điểm cuối giáp đường Phạm Thứ Thứ; mặt đường thảm nhựa; lề bê tông; chiều dài 352m, mặt đường rộng 5.5m; mốc lộ giới 11.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

             Tiểu sử Hoàng Hữu Nam.

            * Hoàng Hữu Nam (1911 – 1947): Liệt sĩ, nhà hoạt động cách mạng; tên thật là Phan Bôi, quê ở làng Bảo An, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Ông được bầu là đại biểu Quốc hội khóa I; là Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Chánh Văn phòng Phủ Chủ tịch, người có nhiều đóng góp trong việc xây dựng chính quyền cách mạng thời kỳ đầu.

            Ông mất năm 1947 tại chiến khu Việt Bắc.

           17. Đường Phan Thanh:

Đường khu dân cư (khối phố 3), có điểm đầu là giáp đường Hoàng Hữu Nam, điểm cuối giáp xã Điện Minh; mặt đường thảm nhựa; lề bê tông; chiều dài 197m; mặt đường rộng 5.5m; mốc lộ giới 11.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

            Tiểu sử Phan Thanh.

            * Phan Thanh (1908 – 1939): Nhà báo, nhà hoạt động cách mạng; quê ở làng Bảo An, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Năm 1937, ông được tổ chức đưa ra ứng cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ, tích cực hoạt động, tranh đấu đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Ông cũng là người sáng lập Hội truyền bá Quốc ngữ (1938). Ông bị bệnh và mất ngày 1/5/1939 tại Hà Nội.

            18. Đường Trần Thị Lý:

Đường lên bến Đá (khối phố 1); có điểm đầu là Nhà máy nước Điện Bàn; điểm cuối giáp đường Trần Nhân Tông; mặt đường thảm nhựa; chiều dài 560m; mặt đường rộng 5.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

             Tiểu sử Trần Thị Lý

            Trần Thị Lý (1933 – 1992): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, quê xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Chị là tấm gương kiên trung, bất khuất, không sợ hy sinh của người phụ nữ Việt Nam nói chung, người phụ nữ Quảng Nam nói riêng trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Khi chị bị bắt, nhằm khuất phục, kẻ thù đã không từ bất cứ thủ đoạn tra tấn dã man nào, nhưng chúng buộc phải thả chị sau hơn 2 năm giam cầm, tù đày. Chị mất ngày 20/11/1992.

            19. Đường Lê Hữu Trác:

Đường vào bệnh viện Đa khoa Bắc Quảng Nam (khối phố 1); có điểm đầu là Cổng bệnh viện; điểm cuối giáp đường Trần Nhân Tông; mặt đường thảm nhựa; lề bê tông; chiều dài 104m; mặt đường rộng 5.5m; mốc lộ giới 9,9m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

             Tiểu sử Lê Hữu Trác.

           * Lê Hữu Trác (1720 - 1791): Hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, danh y nổi tiếng đời Lê; sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc tại làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông là tác giả nhiều pho sách khảo cứu về y học và thảo dược.  

            20.  Đường Nguyễn Văn Trỗi :

            Đường bờ kè (Khối phố 1); có điểm đầu là đầu giáp Nhà máy nước Điện Bàn; điểm cuối giáp đường Trần Nhân Tông; mặt đường thảm nhựa; chiều dài 503m; mặt đường rộng 5.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống cấp thoát nước và điện chiếu sáng.

             Tiểu sử Nguyễn Văn Trỗi.

            * Nguyễn Văn Trỗi (1940 – 1964): chiến sĩ biệt động thành Sài Gòn, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; quê tại làng Thanh Quýt, nay thuộc xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn. Năm 1964, anh nhận nhiệm vụ ám sát Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đến Sài Gòn. Tuy nhiên, việc bị lộ và anh đã bị chính quyền Sài Gòn xử bắn vào ngày 15/10/1964. Cái chết của anh đã làm dấy lên một làn sóng đấu tranh mạnh mẽ khắp trong và ngoài nước.

            21. Đường Bùi Thị Xuân:

          Đường khu dân cư (khối phố 2); có điểm đầu giáp đường Trần Nhân Tông; điểm cuối giáp đường Trần Cao Vân; mặt đường bê tông; chiều dài 248m; mặt đường rộng 5.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống cấp thoát nước.

            Tiểu sử Bùi Thị Xuân.

            Bùi Thị Xuân: Danh tướng triều Tây Sơn; vợ dũng tướng Trần Quang Diệu; quê ở tổng Phú Phong, nay thuộc xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Bà là vị tướng có tài cầm quân dưới trướng của anh hùng Nguyễn Huệ (sau là vua Quang Trung). Khi nhà Tây Sơn sụp đổ, bà cùng với chồng và con gái đều chết trước sự trả thù tàn bạo của Nguyễn Ánh.

            22. Đường Huỳnh Ngọc Huệ:

Đường khu dân cư (Khối phố 2); có điểm đầu giáp đường Trần Nhân Tông; điểm cuối giáp đường Bùi Thị Xuân; mặt đường bê tông; chiều dài 89m; mặt đường rộng 5.5m.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống cấp thoát nước.

            Tiểu sử Huỳnh Ngọc Huệ.

            * Huỳnh Ngọc Huệ (1914 - 1949): Nhà hoạt động cách mạng; quê ở xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc. Ông từng giữ chức Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng (1945); Thường vụ Xứ uỷ Trung Kỳ; Đại biểu Quốc hội khóa I. Ông bị bệnh và mất tại Quảng Ngãi vào ngày 27/4/1949.

             23. Đường Lê Đình Dương:

           Đường khu dân cư, có điểm đầu giáp đường Phạm Phú Thứ; điểm cuối giáp đường Trần Cao Vân; mặt đường thảm nhựa; chiều dài 360m, mặt đường rộng 5.5m, mốc lộ giới 10.5.

            - Hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống cấp thoát nước.

             Tiểu sử Lê Đình Dương.

            * Lê Đình Dương (1893 – 1919): là Y sĩ, nhà yêu nước đầu thế kỷ XX; quê ở làng La Kham, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Sau khi tốt nghiệp thủ khoa y sĩ Đông Dương, ông làm việc tại bệnh viện Hội An. Năm 1916, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Duy Tân tại Huế. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt, bị tù đày và mất năm 1919 tại nhà lao Buôn Mê Thuột. 

          24.  Đường Cao Thắng:

Đường ĐH 9, có điểm đầu giáp đường Phạm Phú Thứ; điểm cuối là công trình thủy lợi; mặt đường bê tông; chiều dài 825m; mặt đường rộng 7.5m; mốc lộ giới 13.5m.  

- Hạ tầng kỹ thuật: Cáp điện thoại, hệ thống cấp thoát nước, điện chiếu sáng.

Tiểu sử Cao Thắng. 

Cao Thắng (1864- 1893): Quê ở xã Tuần Lễ, nay là xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; tham gia khởi nghĩa chống Pháp dưới ngọn cờ của Phan Đình Phùng từ năm 1886 đến năm 1893. Ông là người có công đúc súng trang bị cho nghĩa quân chống Pháp. Ông mất tháng 10 năm 1893, khi chỉ huy nghĩa quân tấn công Nghệ An.



Tiểu sử tóm tắt Danh nhân đặt tên đường tại các phường nội thị thị xã Điện Bàn đã được thông qua theo Nghị quyết số 163/NQ - HĐND, ngày 07/7/2015 của HĐND tỉnh Quảng Nam    

1. Đường Lý Thái Tổ:

          Quốc lộ 1A cũ có điểm đầu Km947 - Tuyến QL1A; điểm cuối là Cầu Giáp Ba (Ranh giới phường Điện An và phường Vĩnh Điện); mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 1200.0 m; chiều rộng 10.5 m; mốc lộ giới 33 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÝ THÁI TỔ

Vua khai sáng triều

Lý Thái Tổ, tên thật là Lý Công Uẩn, sinh năm 974 tại châu Cổ Pháp, nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Vốn thông minh, có tài văn võ, ông từng làm quan nhà tiền Lê, đến chức Điện tiền chỉ huy sứ.

Năm 1009, vua nhà Tiền Lê là Lê Long Đỉnh mất, các con còn nhỏ, ông được các triều thần tôn lên làm vua.

Ông lên ngôi, lấy hiệu là Thuận Thiên, cho dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La (sau đổi thành Thăng Long – Hà Nội), cải cách chính trị, trọng dụng người hiền, trọng đãi tăng sĩ, chú trọng việc đúc tượng, xây chùa.

Ông mất năm 1028, khi đó 54 tuổi, ở ngôi 19 năm.

          2. Đường Phạm Như Xương:

          ĐT.603 có điểm đầu là ngã tư Phường Điện Ngọc (Km0); điểm cuối giao với QL1A tại Km942 thuộc xã Điện Thắng Bắc; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 3800.0 m; chiều rộng 6.0 m; mốc lộ giới 48 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHẠM NHƯ XƯƠNG

Đại thần triều Nguyễn

Phạm Như Xương sinh năm 1844 tại phường Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ngày nay.

Ông đỗ Cử nhân năm 1868, đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) năm 1875; được sơ bổ Huyện lệnh rồi thăng làm Bố chánh Phú Yên.

Sau khi triều đình Huế ký hàng ước với Pháp (1884), ông từ quan rồi chiêu tập nghĩa quân kháng Pháp ở vùng núi từ Bình Thuận đến Phú Yên. Khi nghĩa quân bị tan rã, ông bị bắt và bị áp giải về kinh đô Huế, lãnh án xử “trảm giam hậu” và bị đục bỏ tên tại bia Tiến sĩ.

Sau khi vua Thành Thái can thiệp, ông được tha, được phục chức Điển tịch sung tu thư và được phái đi kinh lược Thanh Nghệ, rồi làm Tri phủ Anh Sơn Nghệ An). Ông cáo quan về nghỉ, được vua ân tặng hàm Văn tuyển tư vụ.

 Ông mất năm 1919 tại quê nhà.

    3. Đường Trần Hưng Đạo:

          ĐT.603 có điểm đầu là Cống Tiềm (Giáp TP Đà Nẵng); điểm cuối tại đường dẫn chính vào Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 5000.0 m; chiều rộng 6.0 m; mốc lộ giới 48 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TRẦN HƯNG ĐẠO

Nhà quân sự kiệt xuất; Anh hùng dân tộc, người có công lớn trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược.

Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, ông là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu vua Trần Thái Tông. Ông vốn có tài về quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược, ông đều được các vua Trần cử làm tướng đánh giặc.

 Trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông năm 1285 và 1288, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công Tiết chế, thống lĩnh các lực lượng quân sự. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, tiêu diệt các đạo quân xâm lược Nguyên - Mông.

Năm 1289, ông được phong tước Hưng Đạo Vương. Sau đó, ông lui về ở ẩn tại Vạn Kiếp (nay thuộc xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương)

Ông mất năm 1300.

Sau khi ông mất, nhân dân khắp nơi lập đền thờ, trăm họ kính trọng ông gọi là Hưng Đạo đại vương.

    4. Đường Trần Thủ Độ:

          ĐT.607A có điểm đầu tại đường dẫn chính vào Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc; điểm cuối tại Km13+400 tại ngã tư đường Nguyễn Trường Tộ, TP Hội An; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 5500.0 m; chiều rộng 6.0 m; mốc lộ giới 48 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TRẦN THỦ ĐỘ

Thái sư đời Trần; người có công sáng lập triều Trần

Trần Thủ Độ sinh năm 1194, người làng Lưu Xá, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Ông xuất thân là tướng nhà Lý, làm Điện tiền chỉ huy sứ, sau đó cai quản các đạo quân bảo vệ kinh thành. Khi nhà Lý suy vong, Trần Thủ Độ đã từng bước chuyển ngôi vua từ nhà Lý sang nhà Trần một cách ôn hòa, bằng cuộc hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng.

Khi Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ giữ chức Thái sư.

Năm 1258, quân Nguyên Mông sang xâm lược nước ta, trước thế giặc mạnh, vua Thái Tông tỏ ý đầu  hàng đầu hàng, ông cương quyết trả lời: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”, rồi cùng nhà vua đôn đốc quân dân đẩy mạnh phản công, làm nên chiến thắng Đông Bộ Đầu (1/1258), đuổi giặc ra khỏi bờ cõi.

Ông mất năm 1264, thọ 70 tuổi.

5. Đường Võ Nguyên Giáp:

          ĐT.603A có điểm đầu tại Phường Điện Ngọc (Giáp Quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng); điểm cuối tại Đồn biên phòng Cửa Đại (Tp Hội An); mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 7000.0 m; chiều rộng 7.5*2 m; mốc lộ giới 27 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử VÕ NGUYÊN GIÁP

Đại tướng; nguyên Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911 tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Từ năm 1925 đến 1926, ông tham gia phong trào học sinh ở Huế, năm 1927 tham gia Đảng Tân Việt cách mạng (một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Năm 1930, ông bị địch bắt và kết án 2 năm tù. Sau khi ra tù, ông tiếp tục hoạt động tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh. Năm 1936, ông hoạt động trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội; là biên tập viên các báo của Đảng: “Tiếng nói của chúng ta”, “Tiến lên”, “Tập hợp”, “Thời báo”, “Tin tức”... Tham gia phong trào Đông Dương đại hội, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ.

Tháng 6/1940, Võ Nguyên Giáp được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đầu năm 1941, ông về nước, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng.

Tháng 12/1944, Võ Nguyên Giáp được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.

Tháng 4/1945, tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, Võ Nguyên Giáp được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ. Từ tháng 5/1945, ông là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; tháng 6/1945, ông được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng.

Tháng 8/1945, Võ Nguyên Giáp được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, ông được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam; là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tháng 3/1946, ông là Chủ tịch Quân sự, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10/1946, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Tháng 1/1948, Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Võ Nguyên Giáp được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, Võ Nguyên Giáp là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Võ Nguyên Giáp được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Võ Nguyên Giáp được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và lần thứ VI của Đảng, Võ Nguyên Giáp được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương.

Từ tháng 1/1980, Võ Nguyên Giáp là Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ); là đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.

Ngày 04/10/2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần tại Hà Nội.

Do công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và Quốc tế.

    6. Đường Lạc Long Quân:

          ĐT.607B có điểm đầu giao với ĐT.603A tại Ngã 3 Thống Nhất, Phường Điện Dương; điểm cuối giao với ĐT.607A (Ngã tư Thương Tín); mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 4300.0 m; chiều rộng 6.0 m; mốc lộ giới 33 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LẠC LONG QUÂN

Thủy tổ của người Việt

Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm, con Kinh Dương Vương thuộc họ Hồng Bàng.

Theo truyền thuyết, ông lấy bà Âu Cơ, sinh ra một trăm người con trai. Một hôm ông nói với Âu Cơ: “Ta thuộc giống rồng, nàng thuộc giống tiên, nếp sinh hoạt khác nhau, không sống chung được lâu” rồi chia 50 con theo mẹ lên miền núi, 50 con theo cha xuống miền biển.

Người con trưởng của Lạc Long Quân nối ngôi, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay).

7. Đường An Dương Vương:

    ĐT.607B có điểm đầu giao với ĐT.607A (Ngã tư Thương Tín); điểm cuối là Ngã ba Lai Nghi (Giao với ĐT.608 tại Km4+670) mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 1600.0 m; chiều rộng 6.0 m; mốc lộ giới 33 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử AN DƯƠNG VƯƠNG

Theo truyền thuyết, An Dương Vương tên thật là Thục Phán, thuộc bộ tộc sống ở vùng Bắc Bộ ngày nay.

Năm 257 trước Công nguyên, Thục Phán nổi dậy giành ngôi của Hùng Vương, xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ngày nay).

Năm 208 trước Công nguyên, dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương, quân dân Âu Lạc đã đánh thắng cuộc xâm lược của quân Tần hùng mạnh ở phương Bắc.

Để củng cố nền tự chủ, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa, chế tạo ra nỏ liên châu, mỗi phát bắn hàng chục mũi tên (còn gọi là nỏ thần). Nhờ có thành lũy vững chắc và vũ khí tốt, Thục Phán đã nhiều lần đánh thắng quân Triệu Đà ở phương Bắc đến xâm lược. Sau Triệu Đà dùng mưu giao kết thông gia, cho con trai là Trọng Thủy cưới Mỵ Châu và ở rể. Trọng Thủy lừa gạt Mỵ Châu, ăn cắp nỏ thần đem về nước.

Năm 179 TCN, Triệu Đà cất quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thua, bỏ thành mà chạy về phương Nam. Từ đây, nước ta rơi vào cảnh nghìn năm Bắc thuộc.

Ngày nay, ở vùng Cổ Loa (huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) vẫn còn đền thờ An Dương Vương và dấu tích Loa Thành, giếng Trọng Thủy.

8. Đường Dũng Sỹ Điện Ngọc:

          Có điểm đầu là Tuyến ĐT.603A (Bãi biển Viêm Đông Phường Điện Ngọc); điểm cuối là Tuyến ĐT.607A (Ngã ba Cây Xoài); mặt đường  bê tông nhựa; chiều dài 2800m; chiều rộng 6.0 m; mốc lộ giới 33 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử DŨNG SỸ ĐIỆN NGỌC

Ngày 26 tháng 2 năm1964, một bộ phận gồm 7 chiến sĩ đặc công của tỉnh và một số cán bộ chính trị huyện Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn) về xây dựng cơ sở ở vùng cát phía đông. Trong khi di chuyển, bộ phận công tác đã bị địch phát hiện và trận đánh nổi tiếng của những Dũng sĩ Điện Ngọc với hàng trăm tên địch đã diễn ra trong suốt một ngày.

Trận đánh ngày 26 tháng 2 năm 1964 tại giếng cạn Điện Ngọc đã đi vào lịch sử đánh giặc Mỹ của nhân dân Điện Bàn, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh cách mạng ở địa phương. Nơi diễn ra trận đánh đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.

          9. Đường Lê Đỉnh:

          Có điểm đầu là Doanh trại Quân đội (D178); điểm cuối là Tuyến ĐT.607A (Tượng đài Dũng Sỹ Điện Ngọc); mặt đường  bê tông nhựa; chiều dài 550m; chiều rộng 5.5m x 2; mốc lộ giới 10.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ ĐỈNH

Đại thần triều Nguyễn; nhà cải cách

Lê Đỉnh, còn gọi là Lê Đình Đỉnh, sinh năm 1847 tại làng Đông Mỹ, nay thuộc xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là thân phụ của các chí sĩ Lê Đình Thám và Lê Đình Dương.

Năm 1870, ông đỗ Cử nhân, lần lượt giữ các chức quan: Biện lý bộ Công; Phó Chủ khảo trường thi Nghệ An; Binh bộ Thượng thư sung Đông các Đại học sĩ; Tổng đốc Hà - An (Hà Nội và Hưng Yên); Hữu đô Ngự sử sung Cơ mật viện đại thần...Ông từng được cử làm Chánh sứ đi nhiều nước, khi trở về ông đã nhiều lần dâng biểu đề nghị cải cách nhưng không được triều đình chấp thuận.

Năm 1884, ông từ quan, về quê mở trường dạy học.

Ông mất năm 1933 tại quê nhà.

10. Đường Nguyễn Thành Ý:

          ĐH4.ĐB có điểm đầu là sông Vĩnh Điện (Ngọc Tam); điểm cuối là ranh giới phường Điện An và xã Điện Phước (Hết địa phận phường Điện An); mặt đường bê tông xi măng, thâm nhập nhựa; chiều dài 2900m/6100.0 m; chiều rộng 3.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN THÀNH Ý

Đại thần, nhà ngoại giao triều Nguyễn

Nguyễn Thành Ý, tự Thiện Quang, hiệu Túy Xuyên, sinh năm 1819 ở làng Túy La, nay thuộc xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông đỗ Cử nhân năm Quý Mão (1843). Từ đó, trải 50 năm làm quan (1844 - 1894), ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Tổng đốc Hải Yên, Thượng thư bộ Hình, Thượng thư bộ Lễ, Phụ đạo đại thần... lúc nào ông cũng tỏ rõ rất mực thanh liêm.

Năm 1874, ông được triều đình bổ nhiệm làm Khâm phái kiêm Lãnh sự ở Gia Định, sau làm đặc sứ đi Pháp (1877). Ông được xem là vị lãnh sự ngoại giao đầu tiên của Việt Nam, một nhà ngoại giao lão luyện cuối triều Tự Đức và một trong những đại thần có xu hướng ủng hộ canh tân đất nước vào nửa cuối thế kỉ XIX.

Năm Thành Thái thứ sáu (1894), ông nghỉ hưu và được phong tước "Phụ đạo Đại thần Hiệp Biện Đại học sĩ".

Ông qua đời năm 1897, thọ 79 tuổi.

11. Đường Hồ Nghinh:

          ĐH9.ĐB có điểm đầu giao với ĐT.607A (phường Điện Nam Đông); điểm cuối nối tiếp đường Cao Thắng (phường Vĩnh Điện) ; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 3500.0 m; chiều rộng 3.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử HỒ NGHINH

Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Đồng chí Hồ Nghinh sinh năm 1913 tại làng Đông Yên, nay thuộc xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Khi còn học tại trường Quốc học Huế, ông tham gia phong trào bãi khóa đòi ân xá Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh và bị kết án 2 năm tù.

Ông tham gia Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, được cử làm Chủ tịch UBND huyện Duy Xuyên. Năm 1949 được bầu vào Tỉnh ủy, sau đó là Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Mặt trận Liên Việt tỉnh Quảng Nam cho đến năm 1954.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông gắn bó với chiến trường Quảng Nam – Đà Nẵng, từng giữ các chức vụ: Ủy viên Thường vụ Khu ủy khu V, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đà (1962 – 1972)...

Sau ngày giải phóng, ông làm Chủ tịch Ủy ban Quân quản thành phố Đà Nẵng; Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng; là người có nhiều đóng góp cho việc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng sau chiến tranh.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, ông được bầu Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương; Ủy viên chính thức tại Đại hội V.

Ông mất năm 2007 tại thành phố Đà Nẵng; được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2012.

12. Đường Trần Đình Phong:

          T1 có điểm đầu giao với đường Cao Sơn Pháo; điểm cuối giao với đường Phan Thúc Duyện; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 256.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TRẦN ĐÌNH PHONG

Nhà giáo triều Nguyễn; Người có công đào tạo nhiều danh nhân Quảng Nam

Trần Đình Phong, hiệu là Mã Sơn, sinh năm 1843 tại làng Yên Mã, nay thuộc huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

Ông thi đỗ Cử nhân khoa Bính Tý (1876) và đỗ Tiến sĩ năm 1879. Cuộc đời làm quan của ông trải các chức: Tri phủ Kiến An kiêm nhiệm phủ Bình Giang (Hải Dương); Tri phủ Thọ Xuân (Thanh Hóa); thăng Thị giảng học sĩ; năm 1898 làm Đốc học tỉnh Quảng Nam.

Trong thời gian làm Đốc học tỉnh Quảng Nam, ông đã trực tiếp giảng dạy ở trường tỉnh (Trường Đốc), ông là người có tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, con ông là Trần Đình Phiên tham gia phong trào Đông Du, sau cộng sự với cụ Huỳnh Thúc Kháng làm báo Tiếng Dân. Trần Đình Phong đã có công đào tạo nhiều danh nhân đất Quảng như Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phạm Tuấn… được học trò kính trọng.

Năm 1905, ông được thăng chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Thời gian này, ông tham gia biên soạn nhiều sách của Quốc sử quán triều Nguyễn như: Quốc triều hình luật, Quốc triều chính biên toát yếu.

Đối với vùng đất Quảng Nam, ngoài việc có công đào tạo nhiều sĩ tử có tài năng và khí phách, ông còn để lại tác phẩm Quảng Nam tỉnh phú - khái quát về lịch sử hình thành và các điều kiện về tự nhiên, tài nguyên, văn hóa, con người, đặc biệt là về truyền thống yêu nước và hiếu học.

 13. Đường Mai Dị:

          T2 có điểm đầu giao với đường Phan Thúc Duyện; điểm cuối giáp với phường Điện An; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 212.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử MAI DỊ

Mai Dị sinh năm 1880 tại làng Nông Sơn, nay là là xã Điện Phước, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông đỗ Cử nhân năm 1906, nhưng không ra làm quan mà về quê mở trường dạy học và tham gia các phong trào yêu nước; là thành viên tích cực của phong trào Duy Tân.

Năm 1908, trong đợt khủng bố trắng sau vụ kháng thuế ở Quảng Nam và 10 tỉnh ở Trung Kỳ của chính quyền thực dân, ông bị bắt giam ở nhà lao Hội An, đến năm 1911 được trả tự do.

Năm 1916, vì bị Pháp nghi có tham gia cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội do Trần Cao Vân và Thái Phiên lãnh đạo, ông bị bắt giam lần nữa, đến năm 1919 mới được trả tự do.

Ông mất năm 1928 tại Huế.

 14. Đường Phan Khôi:

          T3 có điểm đầu giao với đường Phan Thúc Duyện; điểm cuối giao với đường T2; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 468.0 m; chiều rộng 11.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN KHÔI

Nhà văn, nhà báo

Nhà văn, nhà báo Phan Khôi sinh năm 1887 ở làng Bảo An, nay thuộc xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là cháu ngoại của Tổng đốc Hoàng Diệu.

Sau khi đỗ tú tài năm 18 tuổi, ông bỏ lối học khoa cử. Năm 1906, ông ra Hà Nội học tiếng Pháp, tham gia phong trào Duy Tân và dạy học tại trường Đông Kinh nghĩa thục. Khi phong trào Duy Tân bị đàn áp, ông bị bắt đưa về giam tại nhà lao Hội An cho đến năm 1911.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ông ra Hà Nội và tham gia kháng chiến. Ông là một trong những hội viên đầu tiên Hội Nhà văn Việt Nam.

Phan Khôi được coi là một nhà báo tài năng, tích cực tiếp thu nhiều tư tưởng mới từ bên ngoài; đồng thời luôn phê phán một cách hài hước thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp; phê phán thẳng thắn chính sách cai trị của người Pháp trên đất nước Việt Nam. Suốt cuộc đời sáng tác, ông đã để lại hàng ngàn bài báo, tác phẩm văn học thể hiện một kiến thức uyên thâm trên nhiều lĩnh vực thuộc văn hóa, văn nghệ, với một khẩu khí thẳng thắn, bênh vực những cái đúng. Ông được coi là người khởi xướng ra phong trào thơ mới với bài thơ Tình già nổi tiếng. Ông mất năm 1959 tại Hà Nội.

 15. Đường Phan Tốn:

          T4 có điểm đầu giao với đường Cao Sơn Pháo; điểm cuối giao với đường T3; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 168.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN TỐN

Nhà cách mạng; nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam

Phan Tốn, còn gọi là Phan Huyển, sinh năm 1921 tại làng Thọ Khương, nay thuộc xã Tam Hiệp, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

Tháng 5 năm 1945, ông được chỉ định vào Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Nam, phụ trách huyện Điện Bàn. Ông đã trực tiếp tham gia lãnh đạo Huyện ủy Điện Bàn trong Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.

Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1940.

Tháng 9 năm 1955, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam – Đà Nẵng. Tháng 2 năm 1956, sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, ông được cử làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam, cho đến cuối năm 1959.

Tháng 3 năm 1959, ông được bổ sung vào Liên khu uỷ Khu V. Năm 1960, ông tham dự Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III tại Hà Nội.

Ông mất ngày đầu tháng 7 năm 1960 tại Hà Nội, khi tham dự Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.

16. Đường Phan Anh:

          T5 có điểm đầu giao với đường T4; điểm cuối giao với đường T3; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 130.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN ANH

Luật sư; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Luật sư Phan Anh sinh năm 1912 tại làng Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Năm 1937, ông tốt nghiệp Cử nhân Luật ở trường Đại học Đông Dương Hà Nội. Năm 1938, ông sang Pháp để trình luận án Tiến sĩ Luật, nhưng chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ nên ông không kịp bảo vệ luận án và phải về nước năm 1940, hành nghề luật sư.

Ông có tham gia vào nội các của chính phủ Trần Trọng Kim một thời gian. Tuy nhiên, sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 bùng nổ, ông từ chức và tham gia Chính phủ của Hồ Chủ Tịch, được mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tháng 7 năm 1946, ông tham gia phái đoàn Chính phủ Việt Nam dự hội nghị Fontainebleau, đàm phán với Chính phủ Pháp.

Từ năm 1946, ông giữ nhiều trọng trách trong Chính phủ: Bộ trưởng các Bộ: Kinh tế, Công thương, Ngoại thương, Thương nghiệp; phái viên phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Genève năm 1954.

Ngoài ra, ông còn làm Phó Chủ tịch Quốc hội; cùng với Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sáng lập hội Luật gia Việt Nam; Phó Chủ tịch Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới của Việt Nam và Phó Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới…

Ông mất năm 1990 tại Hà Nội.

17. Đường Nguyễn Công Trứ:

          T1 có điểm đầu giao với đường Phạm Phú Thứ; điểm cuối giao với đường Trần Nhân Tông; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 204.0 m; chiều rộng 3.0 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN CÔNG TRỨ

Danh sĩ; Đại thần triều Nguyễn

Nguyễn Công Trứ, tự Tồn Chất, hiệu Ngọc Trai, biệt hiệu Hi Văn, sinh năm 1778 tại làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1820, khi đã 42 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên, bắt đầu một thời kỳ làm quan đầy sóng gió: Hành tẩu bộ Lễ ở Quốc sử quán; Tri huyện Đường Hào (Hải Dương); Lang trung bộ Lại; Tư nghiệp Quốc tử giám (1824); Tham hiệp trấn Thanh Hoá (1825); Thị lang bộ Hình (1827); rồi thăng Hữu tham tri bộ Hình, sung chức Dinh điền sứ Nam Định, Ninh Bình; có lúc làm Tổng đốc Hải An, Tả đô ngự sử Viện đô sát, Tuần phủ An Giang...nhưng rồi có lúc bị giáng xuống làm lính. Đến năm 70 tuổi (1848), sau ba lần xin, ông mới được nghỉ hưu.

Ông từng cùng các tướng đi đánh dẹp các nhóm Lê Duy Lương, Phan Bá Vành, Nùng Văn Vân; từng làm Tham tán quân vụ trấn Tây thành (Campuchia ngày nay).

Khi làm Dinh điền sứ, ông có công mộ dân khẩn hoang, lập hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) trong năm 1829.

Ông mất năm 1858, thọ 80 tuổi.

18. Đường Hồ Xuân Hương:

          T2 có điểm đầu là Chi cục Thuế Điện Bàn ; điểm cuối là Kho bạc thị xã Điện Bàn ; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 1448.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử HỒ XUÂN HƯƠNG

Danh sĩ triều Lê, Nguyễn

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương sinh năm 1772, quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Bà là người hay chữ, có tài thơ văn nhưng duyên phận long đong; lấy chồng muộn, nhưng cả hai lần lấy chồng đều phải làm lẽ và cả hai cuộc hôn nhân đều ngắn ngủi, không có hạnh phúc.

Thơ bà được truyền tụng trong nhân dân với nhiều bài thơ độc đáo, trong đó đề tài chủ yếu là thương cảm số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến và châm biếm, đả kích bọn trưởng giả.

Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.

Bà mất năm 1822.

19. Đường Sư Vạn Hạnh:

          T3 có điểm đầu giao với đường Lê Quý Đôn; điểm cuối giáp với xã Điện Minh; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 254.0 m; chiều rộng 3.0 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử SƯ VẠN HẠNH

Thiền sư đời Tiền Lê; người có công dựng nghiệp nhà Lý

Thiền sư là người họ Nguyễn (không rõ tên), pháp danh Vạn Hạnh, quê ở châu Cổ Pháp, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông thông tam giáo, sùng đạo Phật.

Nhận thấy sự suy vong của nhà Tiền Lê dưới thời vua Lê Ngọa Triều nên ông đã hết lòng ủng hộ Lý Công Uẩn dựng nên nhà Lý. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, tức Lý Thái Tổ, ông được trọng đãi, phong làm Quốc sư.

Ông là người có nhiều đóng góp cho triều đình nhà Lý buổi đầu dựng nghiệp và cho sự hưng thịnh của Phật giáo; là người đã nối truyền tâm ấn, trở thành thế hệ thứ 12, dòng thiền Nam Phương.

Ông mất năm 1018.

20. Đường Bà Huyện Thanh Quan:

          T4 có điểm đầu giao với đường Hoàng Diệu; điểm cuối giáp với xã Điện Minh; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 266.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử BÀ HUYỆN THANH QUAN

Nữ sĩ

Bà Huyện Thanh Quan, tên thật là Ngô Thị Hinh (có tài liệu ghi là Nguyễn Thị Hinh), sinh năm 1805 tại làng Nghi Tàm, nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Bà là vợ ông Lưu Nguyên Ôn (Lưu Nghi), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, làm Tri huyện Thanh Quan (Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) thời Nguyễn, nên được gọi theo chức vụ của chồng là Bà Huyện Thanh Quan.

Bà là một nhà thơ nổi tiếng. Thơ của bà điêu luyện, chuẩn mực về niêm luật, hàm súc giàu nhạc điệu. Nhờ vậy mà thời kỳ bà theo chồng vào làm việc ở Huế, bà được vua Minh Mạng sung vào triều làm Cung Trung giáo tập để dạy công chúa và các cung nhân học.

Năm 1847, sau khi chồng mất, bà đưa các con về sống tại quê, năm sau thì qua đời, hưởng thọ 43 tuổi.

Một số tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng của bà: Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long hoài cổ, Qua đèo Ngang….

21. Đường Nguyễn Nho Túy:

          T5 có điểm đầu giao với đường T3; điểm cuối giao với đường Trần Nhân Tông; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 792.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN NHO TÚY

Nghệ sĩ nhân dân; người có nhiều đóng góp cho nghệ thuật sân khấu Tuồng

Nghệ sĩ Nguyễn Nho Túy 1898 tại làng Bàu Toa, nay thuộc xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

Vốn có năng khiếu và lòng đam mê, ông sớm đến với nghệ thuật sân khấu Tuồng. Sau lại được Nguyễn Hiển Dĩnh hướng dẫn, rèn luyện, ông đã sớm nổi tiếng trên các sân khấu Tuồng từ trước năm 1945.

Năm 1952, khi Đoàn nghệ thuật tuồng khu V được thành lập, ông được mời tham gia xây dựng.

Trong thời gian sống trên miền Bắc (1955 – 1975), tài năng về Tuồng của ông lại có dịp được bộc lộ và phát huy, cả trong biểu diễn, nghiên cứu và đào tạo  các thế hệ diễn viên. Ông là nghệ sĩ có nhiều đóng góp trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật sân khấu Tuồng Việt Nam.

Ông mất năm 1977 tại Đà Nẵng; được truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1983.

22. Đường Lương Khắc Ninh:

          T6 có điểm đầu giao với đường Phạm Phú Thứ; điểm cuối giao với đường Trần Nhân Tông; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 204.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LƯƠNG KHẮC NINH

Nhà văn, nhà báo, người sáng lập tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở nước ta.

Lương Khắc Ninh sinh năm 1862 tại làng An Hội, nay thuộc thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; quê quán làng Bảo An, nay thuộc thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông tốt nghiệp trung học tại trường Le Myre De Vilers (Mỹ Tho), rồi làm việc tại sở Thương chánh Bến Tre từ năm 1880 đến năm 1883. Năm 1889, ông làm thông ngôn tại tòa án Bến Tre, từng làm thành viên Hội đồng quản hạt Bến Tre. Năm 1900, ông bỏ lên Sài Gòn viết báo. Năm 1901, ông làm chủ bút cho tờ Nông cổ mín đàm, là tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ tại Việt Nam.

Năm 1902, ông đắc cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, sau được bổ nhiệm làm thành viên của Hội đồng Tư vấn Đông Dương.

Tuy là người có danh tiếng, từng làm nghị viên hội đồng, tuy vậy hoạt động chính của ông vẫn là trong ngành báo chí. Tháng 10 năm 1908, ông làm chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn từ số 51, thay cho khi chủ bút trước là Trần Chánh Chiếu bị chính quyền thuộc địa Pháp bắt.

Thông qua diễn đàn báo chí, với lòng tự tôn dân tộc, Lương Khắc Ninh cổ động việc phát triển nghề nông và kêu gọi thành lập công ty thương nghiệp để thoát ra khỏi ảnh hưởng của người Hoa kiều, giúp cho dân phú quốc cường. Ông thường xuyên viết báo, chỉ ra những lực cản đang ngăn trở dân tộc, vận động phát triển thương mại, canh tân đất nước.

Năm 1922, ông sang Pháp dự hội chợ đấu xảo tại Marseille. Tại đây, ông đã nhiều lần tiếp xúc, trao đổi và ủng hộ quan điểm, đường lối cứu nước với chí sĩ Phan Châu Trinh. Cũng tại Pháp, ông viết bức thư gửi Khải Định, bấy giờ cũng đang ở Pháp, khuyên Khải Định tiếp thu và thực thi quan điểm của Phan Châu Trinh.

Sau khi ở Pháp về, ông vẫn tiếp tục cộng tác với các báo ở Sài Gòn và thường đi diễn thuyết nhằm cổ động cho phong trào duy tân, tự cường. Ông mất năm 1943.

23. Đường Cao Bá Quát:

          T6 có điểm đầu giao với đường Trần Nhân Tông; điểm cuối giao với đường T6; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 150.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử CAO BÁ QUÁT

Danh sĩ thời Nguyễn

Cao Bá Quát, tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, sinh năm 1809 tại làng Phú Thị, nay thuộc xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Năm 1831, ông đậu Á nguyên trường thi Hà Nội. Nhưng thi Hội hai lần đều bị đánh hỏng, nên ông không thi cử nữa.

Năm 1841, quan đầu tỉnh Bắc Ninh đề cử ông với triều đình. Ông được triệu vào kinh sung chức Hành tẩu bộ Lễ. Ít lâu sau, được cử chấm thi ở trường thi hương Thừa Thiên, ông và bạn đồng sự là Phan Nhạ dùng khói đèn chữa một ít quyển văn hay mà phạm húy, toan cứu vớt người tài. Việc bị phát giác, ông bị kết vào tội chết. Nhưng vua Thiệu Trị giảm tội cho ông, chỉ bị cách chức và phát phối vào Đà Nẵng.

Năm 1854, ông phải đổi lên Sơn Tây, làm Giáo thọ ở phủ Quốc Oai. Ông phẫn chí, bỏ quan theo làm quân sư cho Lê Duy Cự chống lại triều đình. Việc khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt rồi bị xử tử năm 1854.

Ông là người nổi tiếng văn hay chữ tốt, còn để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó có bộ Chu Thần thi tập.

24. Đường Đoàn Kết:

          T1 có điểm đầu giáp sông Vĩnh Điện; điểm cuối giao với đường Trần Nhân Tông; mặt đường bê tông xi măng; chiều dài 250.0 m; chiều rộng 4.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

ĐOÀN KẾT

Mỹ từ, với ý nghĩa kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, chống đối nhau.

25. Đường Phan Châu Trinh:

          T1 có điểm đầu là QL1A cũ (Tiểu công viên); điểm cuối là Kênh thủy lợi (Thôn Phong Nhị); mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 1400.0 m; chiều rộng 15 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN CHÂU TRINH

Chí sĩ, danh sĩ, nhà yêu nước Việt Nam nổi tiếng

          Phan Chu Trinh, tự là Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, sinh năm 1872 tại làng Tây Lộc, nay là xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.

Năm 1901, ông thi đỗ Phó bảng. Năm 1903, được bổ làm Thừa biện bộ Lễ. Tuy nhiên một năm sau ông đã từ quan và dấn thân vào con đường cứu nước, cứu dân.

Năm 1904, ông cùng Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp phát động phong trào Duy Tân ở Quảng Nam. Sau đó, ông cùng với các nhân sĩ, trí thức miền Bắc thành lập trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội.

Năm 1908, phong trào Duy Tân phát triển mạnh mà đỉnh cao phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Lúc đó, Phan Châu Trinh đang ở Hà Nội liền bị thực dân Pháp bắt và đày đi Côn Đảo. Đến năm 1911, được trả tự do, ông bắt đầu sang Pháp.

Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ I bùng nổ, ông bị bọn quan lại, thực dân âm mưu hãm hại và tiếp tục bị bắt giam nhưng ông đã đấu tranh quyết liệt và một lần nữa, chính quyền Pháp buộc phải trả tự do cho ông. Năm 1925, ông trở về Tổ quốc trong tình cảnh bệnh nặng.

Ngày 24/3/1926, Phan Châu Trinh trút hơi thở cuối cùng tại Sài Gòn. Đám tang của ông đã trở thành cuộc vận động chính trị lớn lúc bấy giờ.

26. Đường Lê Tấn Viễn:

          T1 (đường qua trước UBND) có điểm đầu là ĐT.607; điểm cuối là Thôn 7A; mặt đường bê tông; chiều dài 170.0 m; chiều rộng 8 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ TẤN VIỄN

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; người chỉ huy trận đánh của những Dũng sĩ Điện Ngọc

Lê Tấn Viễn (còn gọi là Lê Tấn Hiền, Bảy Hiền) sinh năm 1932 tại xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là phường Điện Nam Bắc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).

Từ năm 15 tuổi, ông đã tham gia cách mạng, làm liên lạc và trinh sát cho bộ đội địa phương của huyện. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng Viễn là một  thiếu niên dũng cảm, mưu trí, luồn lách qua các vùng trọng yếu của địch để chuyển tài liệu, đi trinh sát...

Đầu năm 1953, Lê Tấn Viễn được điều về Đại đội đặc công thuộc Tỉnh đội Quảng Nam; tham gia nhiều trận đánh ở Đại Lộc, Đà Nẵng. Tháng 4-1954, ông bị thương nặng khi tham gia tiêu diệt một đại đội địch tại Câu Lâu. Sau đó, ông tập kết ra Bắc.

Tháng 7-1959, sau khi trở về miền Nam, ông được Tỉnh ủy Quảng Nam giao nhiệm vụ huấn luyện lực lượng vũ trang các huyện Hiên, Giằng, Trà My và Tam Kỳ; tham gia trận đánh tiêu diệt đồn Bót Xít (huyện Giằng) và cứ điểm Ga Lâu (huyện Hiên)… Ngày 26 tháng 2 năm1964, ông chỉ huy một bộ phận gồm 7 chiến sĩ đặc công của tỉnh và một số cán bộ chính trị huyện Điện Bàn về xây dựng cơ sở ở vùng cát phía đông. Trong khi di chuyển, bộ phận công tác đã bị địch phát hiện và trận đánh nổi tiếng của những Dũng sĩ Điện Ngọc với hàng trăm tên địch đã diễn ra trong suốt một ngày.

Trận đánh ngày 26 tháng 2 năm 1964 tại giếng cạn Điện Ngọc đã đi vào lịch sử đánh giặc Mỹ của nhân dân Điện Bàn, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh cách mạng ở địa phương. Nơi diễn ra trận đánh đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.

Ông mất năm 2000. Năm 2010, ông được Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

27. Đường Lê Chân:

          T1 có điểm đầu là 43; điểm cuối là RG1; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 453.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ CHÂN

Nữ tướng của Hai Bà Trưng

Nữ tướng Lê Chân quê ở làng An Biên, nay thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Do Thái thú nhà Hán là Tô Định hãm hại cha mẹ, bà phải bỏ quê ra vùng biển khai phá. Vùng đất mới cũng lấy tên là An Biên, nay thuộc quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Ngoài việc tổ chức cho dân cày cấy, Bà chiêu mộ trai tráng để luyện binh. Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà gia nhập nghĩa quân và lập được nhiều chiến công, được phong là Thánh Chân công chúa.

Đuổi hết quân xâm lược, Trưng Nữ Vương giao cho Bà lo việc quốc phòng. Năm 41, nhà Hán sai Mã Viện sang xâm chiếm, Bà quyết chiến với giặc nhiều trận ác liệt và anh dũng hy sinh nơi cánh đồng làng Mai Động (thuộc quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội ngày nay).

28. Đường Tú Xương:

          T2 có điểm đầu là 46; điểm cuối là 42; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 133.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TÚ XƯƠNG

Nhà thơ trào phúng

Tú Xương, tên thật là Trần Duy Uyên (hay Trần Tế Xương), sinh năm 1870 tại thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định ngày nay. Ông vốn học giỏi, nhưng đi thi mãi chỉ đỗ Tú tài, nên thường gọi là Tú Xương.

Ông nổi tiếng về văn thơ, nhất là về thơ trào phúng và thường lấy ngòi bút để châm biếm những thói hư tật xấu của xã hội trong buổi giao thời nửa thực dân, nửa phong kiến. Thơ văn ông được truyền tụng trong nhân dân như tiếp thêm sức mạnh cho tinh thần đấu tranh chống thói hư tật xấu, thói nịnh bợ.

Ông mất năm 1907 khi đó 37 tuổi.

Một số tác phẩm tiêu biểu: Thương vợ, Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ...

29. Đường Mai Thúc Loan:

          T3 có điểm đầu là RG2; điểm cuối là RG4; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 463.0 m; chiều rộng 10.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử MAI THÚC LOAN

Thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ nhà Đường thế kỷ thứ VIII

Mai Thúc Loan người làng Mai Phụ, nay là xã Thạch Bắc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tương truyền, năm 713, trong một lần gánh vải đi nộp cống cho nhà Đường, ông đã kêu gọi đoàn dân phu chống lại bọn lính áp giải, sau đó thổi bùng thành một cuộc khởi nghĩa, đánh đuổi quan quân nhà Đường.

Tháng 4 năm 713, ông xưng đế (Mai Hắc Đế), đóng đô ở thành Vạn An (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Năm 722, nhà Đường huy động hàng chục vạn quân, do tướng Dương Tư Húc cầm đầu đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh, do chênh lệch về lực lượng, nghĩa quân phải rút lên núi Hùng Sơn tiếp tục cuộc chiến đấu.

Giữa lúc cuộc chiến đang ác liệt, Mai Thúc Loan đột ngột lâm bệnh rồi mất, cuộc khởi nghĩa bị thất bại (723).

30. Đường Trần Nguyên Đán:

          T4 có điểm đầu là 51; điểm cuối là 47; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 335.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TRẦN NGUYÊN ĐÁN

Danh sĩ thời Trần

Trần Nguyên Đán sinh năm 1325. Theo sử sách (Đại Việt sử ký toàn thư), ông vốn dòng dõi của Trần Quang Khải, một tôn thất nhà Trần. Ngay từ thời trẻ, ông được phong làm Ngự sử đại phu, sau lên chức Tư đồ, tước Chương Túc Hầu.

Năm 1385, ông lui về ở ẩn tại núi Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) và mất ở đó vào năm 1390, thọ 65 tuổi.

Về thơ văn, các tác phẩm của ông phần nhiều phản ánh những tâm sự của bản thân và xã hội đương thời. Ông để lại tập Băng hồ, hiện còn 51 bài chép trong Toàn Việt thi lục.

Ông là ông ngoại của danh nhân Nguyễn Trãi.

31. Đường Phan Kế Bính:

          T5 có điểm đầu là 50; điểm cuối là 53; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 248.0 m; chiều rộng 10.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN KẾ BÍNH

Nhà báo, nhà văn, dịch giả nổi tiếng Việt Nam đầu thế kỷ XX; thành viên của phong trào Duy Tân

Phan Kế Bính sinh năm 1875 tại làng Thuỵ Khuê, nay là phường Thuỵ Khuê, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Ông đỗ Cử nhân năm 1906, đời vua Thành Thái nhưng không ra làm quan mà tham gia phong trào Duy Tân.

Từ 1907, ông bắt đầu viết báo cho nhiều tờ báo trong nước. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm: Việt Nam phong tục, Hán Việt văn khảo...; các tác phẩm dịch thuật: Đại Nam nhất thống chí, Ðại nam điển lệ toát yếu... và bộ Tam quốc diễn nghĩa (dịch chung với Nguyễn Văn Vĩnh).

Ông mất năm 1821 khi đó mới 46 tuổi.

32. Đường Công Nữ Ngọc Hoa:

          T6 có điểm đầu là 54; điểm cuối là 56; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 187.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử CÔNG NỮ NGỌC HOA

Công Nữ  Ngọc Hoa là con gái của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Năm 1619, Bà được gả cho một thương nhân Nhật Bản nổi tiếng, đứng đầu các doanh nhân sang làm ăn buôn bán nhiều năm tại Hội An và cũng là nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai, tên là Araki Sotaro. Năm 1620, bà theo chồng về Nhật ở Nagasaki.

Bà qua đời năm 1645, được ban pháp danh là Diệu Tâm.

Hằng năm, từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 10, trong lễ hội Okunchi (một lễ lớn, là niềm tự hào của Nagasaki) ở Nagasaki có một màn đám rước do hai em bé đóng vai vợ chồng Công Nữ Ngọc Hoa đứng trên mũi một chiếc thuyền buôn.

33. Đường Nguyễn Sinh Sắc:

          T1 có điểm đầu nối tiếp đường Mai Văn Chơn (Hòa Quý – Đà Nẵng); điểm cuối là ĐT.603; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 2500.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN SINH SẮC

Nhà yêu nước đầu thế kỷ XX

Nguyễn Sinh Sắc, thường gọi là Cụ Phó bảng, sinh năm 1862 tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là thân sinh của Nguyễn Sinh Cung - tức Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh. Năm 1894 ông đỗ Cử nhân. Năm sau không đậu kỳ thi Hội, dù gia cảnh nghèo, nhưng ông quyết tâm theo đuổi khoa cử; năm 1901, ông đỗ Phó bảng. Với quan niệm học để làm người chứ không phải học để làm quan, trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, sau khi đỗ đạt, ông đã hai lần từ chối ra làm quan, sống thanh đạm bằng nghề dạy học, nghiên cứu tân thư, kết bạn tâm giao với các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Phan Chu Trinh… và đặc biệt chú tâm dạy dỗ con cái.

Năm 1906, khi không còn lý do thoái thác, ông đành phải ra nhận chức Hành tẩu bộ Lễ; năm 1909, ông được đưa vào Bình Khê (Bình Định) nhận chức Tri huyện. Ông thường giao du với các nhà Nho yêu nước ở địa phương, cho những nông dân thiếu tiền thuế, những người tham gia phong trào chống thuế… đang bị giam cầm, trốn thoát. Ông đứng về phía nông dân chống lại giai cấp thống trị. Nhân vụ một tên cường hào bị ông bắt giam rồi chết sau khi thả ra hai tháng, ông bị triều đình phạt 100 trượng, sau giáng bốn cấp và thải hồi. Ông vào Phan Thiết tháng 3/1911, rồi đến Sài Gòn, cùng Nguyễn Tất Thành xuống Mỹ Tho gặp Phan Chu Trinh, trong lúc Phan Chu Trinh đang chuẩn bị sang Pháp.

Ông đi khắp các tỉnh Nam Bộ và đôi lần sang tận Campuchia. Đến đâu ông cũng tìm cách quan hệ với các nhà sư, nhà Nho yêu nước, chính trị phạm của các phong trào Cần Vương, Đông Du, Duy Tân. Năm 1917, ông về Cao Lãnh, kết thân với nhiều nhà Nho yêu nước trong đó có ông Lê Văn Đáng, Trần Bá Lê, Võ Hoành. Ông Trần Bá Lê cất cho ông một gian nhà nhỏ để ông xem mạch cho toa và dạy nghề thuốc. Ông ở Cao Lãnh đến hết năm 1919.

Ông quan hệ với nhiều tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở đồng bằng sông Cửu Long và thường xuyên bị mật thám bám sát theo dõi. Đầu năm 1928, ông về ở Cao Lãnh. Tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Cao Lãnh, đứng đầu là Phạm Hữu Lầu, cho người sắp xếp đưa ông về ở nhà ông Năm Giáo. Hàng ngày ông đến tiệm thuốc bắc Hằng An Đường ở chợ Cao Lãnh làm nghề thuốc giúp đỡ dân nghèo. Tháng 11/1929, ông qua đời, được đồng bào Hoà An, Cao Lãnh chôn cất bên cạnh chùa Hoà Long (phường 4, thành phố Cao Lãnh ngày nay).

34. Đường Ngô Văn Sở:

          T1 có điểm đầu là 2; điểm cuối là 33; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 501.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGÔ VĂN SỞ

Danh tướng nhà Tây Sơn

Danh tướng Ngô Văn Sở quê ở làng Bình Khê, nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông là một trong những người theo Nguyễn Huệ ngay từ những ngày đầu dựng cờ khởi nghĩa; là một trong những tướng lĩnh cao cấp của nghĩa quân Tây Sơn, từng tham gia các trận tấn công Phú Xuân (1786), đánh Bắc Hà diệt Trịnh (1786), diệt Nguyễn Hữu Chỉnh (1787) và Vũ Văn Nhậm (1788); được Nguyễn Huệ phong làm Đại tư mã thống lĩnh quân đội, tổng quản công việc ở Bắc Hà.

Cuối năm 1788, 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy vào xâm lược nước ta. Sau khi bàn bạc với các tướng lĩnh, Ngô Văn Sở cho quân rút về phòng tuyến Tam Điệp để bảo toàn lực lượng; sau đó, cùng đại quân do vua Quang Trung chỉ huy đánh ra Thăng Long. Trong chiến dịch phản công này, Ngô Văn Sở ở bên cạnh vua Quang Trung để cùng chỉ huy đạo quân chủ lực, đánh vào hai đồn Hà HồiNgọc Hồi trước khi về giải phóng Thăng Long.

Ông mất năm 1795, do bị cha con Thái sư Bùi Đắc Tuyên sát hại.

35. Đường Nguyễn Thiếp:

          T2 có điểm đầu là 10; điểm cuối là 32; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 408.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN THIẾP

Danh sĩ thời Hậu LêTây Sơn

Nguyễn Thiếp, tự là Quang Thiếp, La Sơn phu tử, sinh năm 1723 tại xã  Kim Lộc, nay thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ đầu kỳ thi Hương năm 20 tuổi, nhưng không dự thi Hội mà đi ở ẩn.

Năm 1756, ông được bổ làm Huấn đạo ở Anh Đô (Nghệ An), sau được đổi làm Tri huyện Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An). Năm 1768, ông từ quan về ở ẩn trên dãy núi Thiên Nhẫn.

Trong các lần kéo quân ra Bắc diệt Trịnh, trừ Vũ Văn Nhậm và đánh đuổi quân Thanh, Nguyễn Huệ từng nhiều lần mời ông ra bàn quốc sự và giúp nhà Tây Sơn.

Năm 1791, vua Quang Trung ban chiếu lập "Sùng chính Thư viện" ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi, và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là Thi kinh giải âmNgũ kinh toát yếu diễn nghĩa.

Ông mất năm 1804, thọ 81 tuổi

36. Đường Vũ Văn Dũng:

          T3 có điểm đầu là 9; điểm cuối là 31; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 408.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử VŨ VĂN DŨNG

Danh thần thời Tây Sơn

Về thân thế của Vũ Văn Dũng (hoặc Võ Văn Dũng), sách Lê quý kỷ sự chép rằng ông là người Hải Dương, từng theo tướng quân Tạo (Phạm Ngô Cầu) vào lưu thú ở Thuận Hóa; một số sách khác lại cho rằng ông người ở vùng Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, tất cả đều thống nhất rằng ông là một võ tướng dưới nhà Tây Sơn.

Khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc lần thứ nhất (1786), ông cùng Nguyễn Hữu Chỉnh là những trợ thủ đắc lực nhất, được cử trấn thủ vùng đất Hà Tĩnh; sau đó, được cử trấn thủ Hải Dương khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai; được cử làm Đô đốc trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh năm Kỷ Dậu 1789.

Ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu, hoàng đế Quang Trung cử ông đi sứ Trung Quốc nhằm giảng hòa với nhà Thanh; năm 1791 tiếp tục cử ông đi sứ nhằm đòi lại những vùng đất mà nhà Thanh chiếm của Đại Việt trước đó.

Sau khi Quang Trung mất (1792), ông tiếp tục chiến đấu để bảo vệ vương triều Tây Sơn.

Năm 1802, ông bị bắt và bị Nguyễn Ánh - Gia Long trả thù tàn bạo.

37. Đường Nguyễn Cư Trinh:

          T4 có điểm đầu là 8; điểm cuối là 30; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 399.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN CƯ TRINH

Danh sĩ; Danh tướng thời chúa Nguyễn

Nguyễn Cư Trinh, tên chữ là Nghi, hiệu Đạm Am, sinh năm 1716 tại xã An Hoà, nay là phường An Hòa, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông vốn có tài văn, võ; năm 1740, đỗ Hương cống (Cử nhân), làm quan đến Thượng thư bộ Lại, kiêm Tào vận sứ, tước Nghi Biểu Hầu. Ông nổi tiếng liêm chính, giỏi việc chính trị, doanh điền, ngoại giao.

Năm 1750, khi làm Tuần phủ Quảng Ngãi, ông có công đánh dẹp cuộc nổi dậy chống triều đình ở Đá Vách (người dân tộc khởi loạn). Năm 1853, được cử vào miền Nam khai hoang lập ấp, thu cả miền đồng bằng sông Cửu Long về cho Đại Việt.

Thơ văn ông được truyền tụng nhiều, gồm một số bài thơ chữ Hán và chữ Nôm, đặc sắc nhất là: Sãi vãi, Quảng Ngãi thập nhị cảnh, Đạm Am thi tập và mười bài họa Hà Tiên thập cảnh vịnh...

Ông mất năm 1767, khi đó 51 tuổi.

38. Đường Nguyễn Lộ Trạch:

          T5 có điểm đầu là 3; điểm cuối là 29; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 460.0 m; chiều rộng 10.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN LỘ TRẠCH

Nhà canh tân đất nước thế kỷ XIX

Nguyễn Lộ Trạch, tự là Hà Nhân, hiệu Kỳ Am, sinh năm 1853 tại làng Kế Môn, nay là xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là Nguyễn Thanh Oai, từng giữ chức Thượng thư bộ Hình, Tổng đốc Ninh Thái (Bắc NinhThái Nguyên) trong triều.

Ông nổi tiếng học rộng biết nhiều, nhưng do ghét lối học từ chương nên không đi thi. Ông thường giao du với những người có tư tưởng tiến bộ, chấp nhận cái mới. Trong các năm 1877 và 1882, ông dâng bản Thời vụ sách, nêu lên những yêu cầu bức thiết của nước nhà, nhưng không được chấp nhận.

 Năm 1892, nhân kỳ thi Hội có ra đề hỏi về "Đại thế toàn cầu", ông lại dâng lên bản Thiên hạ đại thế luận (Bàn chuyện lớn trong thiên hạ), nhưng vẫn bị bỏ qua. Tuy vậy, bản Thiên hạ đại thế luận lại được sĩ phu và những người có tư tưởng canh tân nhiệt liệt hưởng ứng.

 Nguyễn Lộ Trạch được xem là nhà canh tân đất nước tiêu biểu của thế kỷ XIX.

Ông mất năm 1895 tại Bình Định, khi đó 42 tuổi.

39. Đường Tống Duy Tân:

          T6 có điểm đầu là 6; điểm cuối là 28; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 389.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TỔNG DUY TÂN

Thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (Thanh Hóa) chống Pháp cuối thế kỷ XIX

Tống Duy Tân sinh năm 1837 tại làng Bồng Trung, nay thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1875, được bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, rồi Đốc học Thanh Hóa, sau làm Thương biện Tỉnh vụ.

Năm 1885, ông được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ Sơn phòng tỉnh Thanh Hóa, tham gia xây dựng các căn cứ Ba Đình, Hùng Lĩnh chống Pháp. Năm 1887, các căn cứ Ba Đình, Mã Cao...lần lượt thất thủ, các thủ lĩnh như Đinh Công Tráng, Hà Văn Mao, Hoàng Bật Đạt, Phạm Bành ...hy sinh trước sự tấn công của quân Pháp. Trước tình thế đó, Tống Duy Tân đã rút lên căn cứ Hùng Lĩnh (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), tiếp tục chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa diễn ra trong các năm 1889 -1891, sau đó gia nhập lực lượng của Cầm Bá Thước ở vùng núi phía tây Thanh Hóa.

Năm 1892, ông bị Pháp bắt và bị kết án tử hình.

40. Đường Yết Kiêu:

          T7 có điểm đầu là 5; điểm cuối là 27; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 470.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử YẾT KIÊU

Danh tướng thời Trần

Danh tướng Yết Kiêu sinh năm 1242, người làng Hạ Bì, nay thuộc huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.

Ông có biệt tài lặn nhiều giờ dưới nước như đi trên cạn. Về sau ông trở thành tướng lĩnh gan dạ, tài giỏi dưới trướng của Trần Hưng Đạo.

 Ông lập nhiều chiến công trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược. Vốn giỏi thủy chiến, ông đã dùng tài lặn đánh đắm nhiều thuyền giặc.

Ông mất năm 1301. Khi ông mất, vua Trần truyền lập đền thờ ông ở làng Hạ Bì, nơi quê ông.

41. Đường Nguyễn Bá Ngọc:

          T8 có điểm đầu là 10; điểm cuối là 5; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 454.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN BÁ NGỌC

Liệt sĩ

Nguyễn Bá Ngọc sinh năm 1952 tại xã Quảng Trung, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Khi hy sinh đang là học sinh lớp 4B (năm học 1964 - 1965) trường phổ thông cấp I xã Quảng Trung.

Ngày 4 tháng 4 năm 1965, máy bay Mỹ đã tới ném bom, bắn phá xã Quảng Trung. Lúc ấy, người lớn đã ra đồng làm việc, trong nhà chỉ còn có trẻ em. Nghe tiếng máy bay, Ngọc đã kịp chạy xuống hầm. Ở dưới hầm, Ngọc nghe thấy có tiếng khóc to bên nhà Khương, Khương là bạn của Ngọc. Không chút ngần ngừ, Ngọc nhào lên, chạy sang nhà Khương thì thấy bạn của mình đã bị thương. Các em nhỏ của Khương là Toanh, Oong, Đơ đang kêu khóc. Ngọc vội vừa bế, vừa dìu hai em Oong, Đơ xuống hầm. Tới gần nơi trú ẩn thì giặc lại thả bom bi và em đã bị một viên bi bắn vào lưng.

Do vết thương quá nặng, Nguyễn Bá Ngọc đã hy sinh vào sáng ngày 5/4/1965 tại bệnh viện.

42. Đường Phạm Ngọc Thạch:

          T9 có điểm đầu là 13; điểm cuối là 21; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 501.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHẠM NGỌC THẠCH

Giáo sư bác sĩ; nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế; Anh hùng lao động.

Sinh ngày 07 tháng 5 năm 1909 tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

Sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa (chuyên khoa lao) trường Đại học Paris năm 1934, ông về nước, mở phòng mạch và tham gia cách mạng, trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 – 1939). Tháng 5-1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành thủ lĩnh của tổ chức Thanh niên Tiền phong, tham gia cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám.

Cách mạng thành công, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Y tế trong Chính phủ lâm thời. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Sau Hiệp định Genève, ông làm Bộ trưởng Bộ Y tế, Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Ông còn là Chủ tịch ủy ban điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Ông được tuyên dương là Anh hùng Lao động.

Ngày 7-11-1968, ông hy sinh trong lúc đang công tác tại chiến trường miền Nam.

43. Đường Nguyễn Viết Xuân:

          T10 có điểm đầu là 34; điểm cuối là 27; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 396.0 m; chiều rộng 10.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN VIẾT XUÂN

Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Nguyễn Viết Xuân sinh năm 1934 ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; khi hy sinh là chính trị viên đại đội 3, tiểu đoàn 14 pháo cao xạ.

Trong trận đánh trả không quân Mỹ ngày 18 tháng 11 năm 1964 miền tây  Quảng Bình, ông bị thương nặng nhưng không rời trận địa, vẫn tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu với câu động viên nổi tiếng “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Ông hy sinh anh dũng ngay trên trận địa.

Tấm gương hy sinh quên mình vì nhiệm vụ và lời hô bất tử của ông đã tạo nên một phong trào thi đua lập công của các lực lượng vũ trang những năm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc.

44. Đường Đặng Thai Mai:

          T1 có điểm đầu là 1; điểm cuối là 2; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 293.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử ĐẶNG THAI MAI

Nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học Việt Nam.

 Đặng Thai Mai sinh năm 1902 tại làng Lương Điền, nay thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Năm 1925, khi đang theo học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, ông tham gia phong trào đòi thả Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh, đồng thời gia nhập đảng Tân Việt.

Năm 1928, ông trở thành giáo sư Trường Quốc học Huế; từng bị bắt giam vì tham gia các hoạt động cách mạng. Năm 1935, ông tham gia thành lập Trường tư thục Thăng Long; cùng Nguyễn Văn Tố, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp... thành lập Hội truyền bá chữ Quốc ngữ (1936).

Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I, Ủy viên Ban dự thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Bộ Giáo dục trong Chính phủ liên hiệp. Sau đó, ông giữ nhiều trọng trách trên lĩnh vực văn hoá và giáo dục: Hội trưởng Hội văn hóa Việt Nam, Giám đốc Trường dự bị đại học và Sư phạm cao cấp Liên khu IV, Giám đốc trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện trưởng Viện văn học, Chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.

Ông là tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị; người có công giới thiệu văn học hiện đại Trung Quốc đến với bạn đọc Việt Nam.

Ông mất năm 1984; được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh (1982) và Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

45. Đường Bế Văn Đàn:

          T2 có điểm đầu là G15; điểm cuối là G19; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 250.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử BẾ VĂN ĐÀN

Liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Anh hùng Bế Văn Đàn, người dân tộc Tày, sinh năm 1931 tại xã Quang Vinh, huyện Phục Hoà, tỉnh Cao Bằng. Tháng l năm 1948, ông xung phong vào bộ đội và tham gia nhiều chiến dịch.

Tháng 12 năm 1953, đơn vị của ông được giao nhiệm vụ chặn địch ở Mường Pồn. Tại đây, ông đã lấy thân mình làm giá súng cho đồng đội tiêu diệt địch, bảo vệ trận địa và đã anh dũng hy sinh.

Tấm gương chiến đấu dũng cảm của Bế Văn Đàn đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ hăng hái thi đua giết giặc lập công, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử của chiến dịch này.

Ngày 31/8/1955, Bế Văn Đàn được Quốc hội truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

46. Đường Cù Chính Lan:

          T3 có điểm đầu là G23; điểm cuối là 3; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 229.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử CÙ CHÍNH LAN

Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Cù Chính Lan sinh năm 1930 tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Khi hy sinh ông là tiểu đội trưởng bộ binh thuộc tiểu đoàn 304, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1946, Cù Chính Lan tình nguyện xung phong nhập ngũ, làm liên lạc, rồi tiểu đội trưởng bộ binh. Trong chiến dịch Hòa Bình, tháng 12 năm 1951, ông đã dũng cảm chiến đấu, tiêu diệt nhiều lực lượng địch. Đặc biệt, trong trận Giang Mỗ lần thứ 2 (ngày 13 tháng 12 năm 1951), khi địch lọt vào trận địa, ông đã dũng cảm nhảy lên xe tăng, ném lựu đạn tiêu diệt xe tăng địch. Tấm gương của Cù Chính Lan đã cổ vũ toàn quân thi đua diệt xe tăng và xe cơ giới địch.

Ngày 29 tháng 12 năm 1951, Cù Chính Lan đã anh dũng hy sinh khi tham gia đánh đồn Cô Tô, khi tuổi đời mới tròn 22 tuổi.

Ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1955.

47. Đường Quách Thị Trang:

          T4 có điểm đầu là G22; điểm cuối là 4; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 228.0 m; chiều rộng 15.0 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử QUÁCH THỊ TRANG

Liệt sĩ

Quách Thị Trang sinh năm 1948 tại làng Cổ Khúc, nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; năm 1954, gia đình chị vào sinh sống tại vùng Chí Hòa, thành phố Sài Gòn.

Năm 1963, chị tích cực tham gia trong phong trào đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm của các tầng lớp nhân dân, nhất là trong phong trào học sinh, sinh viên của thành phố Sài Gòn.

Ngày 25 tháng 8 năm 1963, chị có mặt trong đoàn sinh viên, học sinh biểu tình phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm và đã bị cảnh sát bắn chết tại công viên Diên Hồng. Cái chết của chị đã tạo nên một làn sóng phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm khắp trong và ngoài nước.

Năm 1975, chị được công nhận là liệt sĩ.

48. Đường Trần Văn Giàu:

          T5 có điểm đầu là 6; điểm cuối là 5; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 254.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TRẦN VĂN GIÀU

Giáo sư, nhà cách mạng, nhà giáo, nhà khoa học

Giáo sư Trần Văn Giàu sinh năm 1911 tại làng An Lạc Long, nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

Ông tham gia cách mạng từ những năm ba mươi của thế kỷ XX. Năm 1935, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo

Năm 1943, ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ; tham gia lãnh đạo giành chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ trong cách mạng tháng 8 năm 1945, sau đó được cử làm chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ.

Trong những năm 1946 - 1948, ông được giao nhiệm vụ giúp Campuchia xây dựng lực lượng kháng chiến. Năm 1949 ông về nước, làm Tổng Giám đốc Nha Thông tin.

Trên lĩnh vực nghiên cứu, giáo dục, ông được phong hàm Giáo sư đợt đầu tiên (1955); tham gia giảng dạy bộ môn Lịch sử tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ năm 1962 - 1975, ông công tác tại Viện Sử học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam.

Ông là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu có giá trị trên các lĩnh vực triết học, lịch sử, văn hoá: Biện chứng pháp, Vũ trụ quan, Duy vật lịch sử, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỉ 19 đến Cách mạng tháng Tám, Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Sự khủng hoảng của chế độ nhà Nguyễn trước 1858, Lịch sử chống xâm lăng, Giai cấp công nhân Việt Nam, Lịch sử cận đại Việt Nam, Miền Nam giữ vững thành đồng, Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh...

Ông được phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân năm 1992; Huân chương Hồ Chí Minh; danh hiệu Anh hùng Lao động thời kì đổi mới (2003); Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

Ông mất năm 2010 tại thành phố Hồ Chí Minh.

49. Đường Võ Như Hưng:

          T1 (đường chợ cũ) có điểm đầu giáp giới phường Điện Dương; điểm cuối là ĐT.607; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 1800.0 m; chiều rộng 4 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử VÕ NHƯ HƯNG

Liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Võ Như Hưng, tên thật là Võ Như Trích, sinh năm 1929 tại làng Quảng Lăng, nay thuộc phường Điện Nam Trung, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông nhập ngũ năm 1952, tham gia chiến đấu trên nhiều chiến trường. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, sau đó tình nguyện trở về quê hương chiến đấu (năm 1960).

 Ngày 26 tháng 4 năm 1962, ông nhận nhiệm vụ chỉ huy một đội công tác vào vùng địch quấy phá, hỗ trợ cho đợt phá ấp chiến lược, giành đất, giành dân. Tuy nhiên, đội công tác đã bị một tiểu đoàn địch bao vây tại giếng cát xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn (nay là phường Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn).

Cuộc chiến đấu không cân sức giữa 7 chiến sĩ với một lực lượng lớn địch diễn ra trong suốt một ngày, đã làm nên tên tuổi của những Dũng sĩ Điện Ngọc.

Ông hy sinh khi tham gia chỉ huy một trận đánh vào tháng 12 năm 1963. Năm 1965, liệt sĩ Võ Như Hưng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

50. Đường Huy Cận:

          T1 có điểm đầu là QL1A (Bệnh viện Vĩnh Đức); điểm cuối là T2 (Giáp giới phường Điện An); mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 200.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử HUY CẬN

Nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới; nhà hoạt động cách mạng.

Huy Cận, tên thật là Cù Huy Cận, sinh năm 1919 tại làng Ân Phú, nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

Thuở nhỏ ông học ở Hà Tĩnh, lớn lên vào Huế học trường Quốc học. Sau khi đậu tú tài Pháp Việt, ông ra Hà Nội học trường Nông lâm. Thời gian này, ông vừa làm thơ, vừa tham gia hoạt động cách mạng.

Năm 1945, ông được cử tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào và được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng, được cử cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng vào Huế nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại.

Ông từng giữ nhiều trọng trách trong Chính phủ: Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời (1945); Thứ trưởng Bộ Nội vụ (1946); Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ (1949-1955); Thứ trưởng Bộ Văn hóa (1956-1984)….

Các tác phẩm chính: Lửa thiêng, Trời mỗi ngày lại sáng......

Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

Ông mất năm 2005 tại Hà Nội, thọ 86 tuổi.

51. Đường Lê Thị Hồng Gấm:

          T2 có điểm đầu là T1; điểm cuối là T3 (Gara Quang Đức); mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 250.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ THỊ HỒNG GẤM

Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Lê Thị Hồng Gấm sinh nǎm 1951 tại xã Long Hưng, nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Chị tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, được phân công làm giao liên

Đầu năm 1970, trên đường đi công tác, chị bị phục kích và đã anh dũng hy sinh sau khi tiêu diệt nhiều tên địch.

Một phong trào thi đua giết giặc, học tập tấm gương Lê Thị Hồng Gấm trên khắp miền Nam.

52. Đường Lê Văn Hiến:

          T3 có điểm đầu là QL1A; điểm cuối là T2; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 200.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ VĂN HIẾN

Nhà cách mạng

Lê Văn Hiến sinh năm 1914, quê ở huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.

Năm 1926, ông tham gia thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Quảng Nam.

Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương; sau đó bị bắt, bị kết án 5 năm tù đầy lên Kon Tum. Năm 1935, được trả tự do, ông về Đà Nẵng tiếp tục hoạt động cách mạng, lập nhà sách Việt Quảng, xuất bản và phổ biến những sách báo tiến bộ.

Ông tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền tại Quảng Nam - Đà Nẵng trong cách mạng tháng 8 năm 1945; trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I, đơn vị Quảng Nam; được bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Tài chính; sau giữ chức Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (1959), Đại sứ Việt Nam tại Lào.

Ông mất năm 1998.

53. Đường Phan Huy Ích:

          T1 có điểm đầu là 1; điểm cuối là 6; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 981.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN HUY ÍCH

Danh sĩ thời Hậu Lê, Tây Sơn

Phan Huy Ích, tên thật là Phan Công Huệ, tự là Chi Hòa, hiệu Đức Hiên, sinh năm 1750 ở làng Thu Hoạch, nay là xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1771, ông đỗ Giải nguyên. Năm 1775, đỗ Tiến sĩ, được bổ làm Hàn lâm thừa chỉ, rồi làm Đốc đồng tỉnh Thanh Hóa, trong coi việc an ninh; sau được thăng Hiến sát sứ Thanh Hóa, trông coi việc xét xử và luật pháp. Chán cảnh làm quan dưới thời vua Lê chúa Trịnh, ông mấy lần cáo bệnh xin về hưu đều không được chấp nhận.

Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc, xuống chiếu cầu hiền, ông ra hợp tác với Tây Sơn, được phong làm Tả thị lang bộ Hộ.

Đầu năm 1790, ông cùng sứ bộ sang nhà Thanh. Năm 1792 về nước, được thăng Thị trung ngự sử ở tòa Nội các, sau thăng Thượng thư bộ Lễ. Khi nhà Nguyễn thành lập, ông về quê mở trường dạy học.

Ông mất năm 1822, thọ 72 tuổi.

Theo các nhà nghiên cứu, ông là người đã hoàn chỉnh bản dịch Chinh phụ ngâm của tác giả Đặng Trần Côn (người diễn Nôm đầu tiên là Đoàn Thị Điểm).

54. Đường Trịnh Hoài Đức:

          T2 có điểm đầu là 6; điểm cuối là 26; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 408.0 m; chiều rộng 11.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TRỊNH HOÀI ĐỨC

Danh tướng; Khai quốc công thần triều Nguyễn

Trịnh Hoài Đức, tự là Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, sinh năm 1765. Tổ tiên ông vốn người tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, sau sang nước ta lập nghiệp.

Ông vốn là người thông minh, có kiến thức uyên thâm trên nhiều lĩnh vực, từng làm quan từ thời chúa Nguyễn Ánh. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi (vua Gia Long), ông càng được trọng dụng, giữ các chức vụ cao trong triều Nguyễn: Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Công, Thượng thư bộ Lễ..., sung chức Phó Tổng tài Quốc sử giám; Tổng trấn Gia Định thành; nhiều lần đi sứ Trung Quốc.

Ông nổi tiếng văn chương một thời, cùng Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tịnh được người đời xưng tặng là “Gia Định tam gia”. Ông là tác giả của bộ Gia Định thành thông chí, một công trình có giá trị cao về lịch sử, địa lý và văn hóa của miền Nam bộ.

Ông mất năm 1825, thọ 60 tuổi.

55. Đường Văn Tiến Dũng:

          T3 có điểm đầu là A; điểm cuối là 46; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 1664.0 m; chiều rộng 7.5*2 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử VĂN TIẾN DŨNG

Đại tướng QĐND Việt Nam; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

Đại tướng Văn Tiến Dũng sinh năm 1917 tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Ông tham gia cách mạng từ những năm ba mươi của thế kỷ XX; từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng, Nhà nước và quân đội: Bí thư Xứ ủy Bắc Kì, Bí thư Bắc Ninh (1943 - 1944); Chính ủy Chiến khu II (gồm 8 tỉnh Tây Bắc); Cục trưởng Cục chính trị Quân đội nhân dân; Phó Bí thư Quân ủy Trung ương; Đại Đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đại đoàn 320; Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam từ 1953 - 1978.

Ông làm Trưởng đoàn đại biểu Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ủy ban Liên hiệp đình chiến thi hành hiệp định Genève.; trực tiếp chỉ đạo nhiều trận đánh lớn trong kháng chiến chống Mỹ: Đường 9 - Nam Lào (1971); Trị - Thiên (1972); Tư lệnh chiến dịch giải phóng Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975.

Năm 1980, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương

Ông mất năm 2002 tại Hà Nội; được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác.

56. Đường Nguyễn Gia Thiều:

          T4 có điểm đầu là 13; điểm cuối là 20; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 671.0 m; chiều rộng 15.0 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN GIA THIỀU

Danh sĩ thời Lê

Nguyễn Gia Thiều, hiệu Tân Trai, sinh năm 1741 tại làng Liễu Ngạn, nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông là cháu ngoại của Chúa Trịnh Cương. Năm 18 tuổi, ông nhận chức Hiệu uý; năm 31 tuổi, lãnh chức Tổng binh Hưng Hóa, tước Ôn Như Hầu.

Khi quân Tây Sơn ra Bắc, ông chạy lánh ở vùng núi Hưng Hóa. Sau vua Quang Trung cho triệu vào Kinh đô Phú Xuân, ông bất đắc dĩ phải tuân mệnh, nhưng chán chường con đường công danh, suốt ngày say rượu.

Ông nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực: văn, sử, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc; là tác giả của Cung oán ngâm khúc, được người đời sau biết đến hơn cả.

Ông mất năm 1789, khi đó 57 tuổi.

57. Đường Lưu Hữu Phước:

          T5 có điểm đầu là 2; điểm cuối là 24; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 1032.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LƯU HỮU PHƯỚC

Nhạc sĩ

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, còn có các bút danh khác: Huỳnh Minh Siêng, Long Hưng, sinh năm 1921 tại huyện Ô Môn, thành phố Cần Thơ.

Ông thuộc lớp đầu đàn của giới nhạc sĩ Việt Nam. Bài Bạch Đằng Giang, sáng tác trước năm 1945, mở đầu cho hàng loạt những ca khúc cách mạng của ông sau này: Xếp bút nghiên, Lên đàng, Tiếng gọi thanh niên, Xuống đường, Giải phóng miền Nam, Bài ca giải phóng quân, Tiến về Sài Gòn....

Ngoài hoạt động sáng tác, ông còn là nhà hoạt động xã hội đầy uy tín: Giáo sư, Viên trưởng Viện Âm nhạc; Chủ tịch Hội đồng Âm nhạc quốc gia; Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thông tin, Tuyên truyền của Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam; Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục của Quốc hội.

Ông mất năm 1989; được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

58. Đường Nguyễn Khắc Nhu:

          T6 có điểm đầu là 10; điểm cuối là 23; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 686.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN KHẮC NHU

Chí sĩ yêu nước; một trong những lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng

Nguyễn Khắc Nhu, còn gọi là Xứ Nhu, sinh năm 1881 tại làng Song Khê, nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hương của Bắc Kỳ năm 1912, nên gọi là Xứ Nhu.

Năm 1927, ông tham gia thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Ngày 9 tháng 2 năm 1929, một Đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng đã ám sát tên trùm mộ phu người Pháp là Ba-danh, dẫn đến Việt Nam Quốc dân Đảng bị thực dân Pháp khủng bố.

Ngày 9/2/1930, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cuộc khởi nghĩa tại Yên Bái và một số địa phương (còn gọi là khởi nghĩa Yên Bái), Nguyễn Khắc Nhu được phân công trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa ở Lâm Thao, Việt Trì (thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay).

Khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt và sau đó đã tự sát trong tù (ngày 11 tháng 2 năm 1930), khi đó 49 tuổi.

59. Đường Hoàng Châu Ký:

          T7 có điểm đầu là 22; điểm cuối là 25; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 194.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử HOÀNG CHÂU KÝ

          Giáo sư; soạn giả, đạo diễn, nhà nghiên cứu Tuồng

Giáo sư Hoàng Châu Ký sinh năm 1922 tại xã Quế Lộc, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Ông tham gia cách mạng sớm, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1942.

Trong những năm 1943-1944, ông bị địch bắt và giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Quảng Nam.

Sau 1945, ông giữ chức Bí thư huyện ủy Quế Sơn, Bí thư huyện ủy Tiên Phước, Uỷ viên thường vụ Uỷ ban Việt Minh tỉnh Quảng Nam, Phó ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Nam...

Từ năm 1951, ông chuyển sang hoạt động sân khấu Tuồng, làm Tổng thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu; Hiệu trưởng Trường nghệ thuật Ca kịch dân tộc Việt Nam; Viện trưởng Viện nghiên cứu sân khấu Việt Nam...

Ông là tác giả của hàng chục công trình nghiên cứu và tác phẩm có giá trị của nghệ thuật Tuồng.

Ông mất năm 2008 tại thành phố Đà Nẵng.

60. Đường Phan Huy Chú:

          T8 có điểm đầu là 7; điểm cuối là 9; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 545.0 m; chiều rộng 10.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN HUY CHÚ

Danh sĩ; Nhà sử học thời Nguyễn

Phan Huy Chú, tự là Lâm Khanh, hiệu là Mai Phong, sinh năm 1782 tại xã Thu Hoạch, nay là xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông hai lần thi đỗ tú tài vào các năm 1807 và 1819 nên tục gọi là Kép Thầy; được bổ làm Biên tu ở Viện Hàn Lâm. Năm 1824, ông được cử làm Phó sứ sang Trung Quốc.

Năm 1828, ông làm Phủ thừa tỉnh Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp trấn Quảng Nam. Năm 1830, ông được đi sứ Trung Quốc. Lúc về ông và chánh sứ đều bị cách chức. Cuối năm 1833, lại được bổ làm Tư vụ bộ Công. Chẳng bao lâu ông cáo bệnh xin về hưu

Ông mất năm 1840, khi đó 58 tuổi.

Các tác phẩm chính của ông: Lịch triều hiến chương loại chí, Hoàng Việt dư địa chí, Mai Phong du Tây thành dã lục, Lịch đại điển yếu thông luận…

61. Đường Lê Đức Thọ:

          T9 có điểm đầu là 2; điểm cuối là 44; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 986.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ ĐỨC THỌ

Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam

Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh năm 1911 tại làng Địch Lễ, nay là xã Nam Vân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1926; gia nhập Đông Dương Cộng sản Đảng năm 1929.

 Trong thời kì hoạt động bí mật, ông hai lần bị bắt và bị kết án tù, lưu đầy khổ sai qua nhiều nhà tù. Ông là Ủy viên Trung ương, rồi Uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ uỷ Bắc Kỳ.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông phụ trách công tác tổ chức của Đảng; tham gia Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ vào Nam Bộ công tác, làm Phó Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ.

Sau năm 1954, ông làm Trưởng ban Thống nhất Trung ương; được bầu vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư, làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng; Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam; phụ trách công tác đấu tranh ngoại giao, cố vấn đặc biệt của đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Pari về Việt Nam, trực tiếp đàm phán với đại diện Chính phủ Hoa Kỳ để giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam; một trong những người trực tiếp chỉ đạo và có những đóng góp to lớn vào Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

Ông được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Ông mất năm 1990 tại Hà Nội.

62. Đường Mai Xuân Thưởng:

          T10 có điểm đầu là 44; điểm cuối là 46; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 522.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử MAI XUÂN THƯỞNG

Chí sĩ yêu nước; Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Bình Định cuối thế kỷ XIX

Mai Xuân Thưởng sinh năm 1860 tại làng Phú Lạc, nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông đỗ Cử nhân năm 1884.

Năm 1885, hưởng ứng phong trào Cần Vương, ông đã cùng Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận tập hợp lực lượng, xây dựng căn cứ chống Pháp ở vùng Tây Sơn, sau đó lan rộng ra các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại.

Tháng 4 năm 1887, quân Pháp tập trung quân đàn áp cuộc khởi nghĩa. Để tránh cho dân chúng khỏi lâm vào cảnh lầm than, ông đã nộp mình cho giặc và bị giết hại vào tháng 6 năm 1887.

63. Đường Nam Trân:

          T11 có điểm đầu là 34; điểm cuối là 39; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 449.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NAM TRÂN

Nhà thơ

Nhà thơ Nam Trân, tên thật là Nguyễn Học Sỹ, sinh năm 1907 tại làng Phú Thứ Thượng, nay thuộc xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ông có những sáng tác khá sớm, đăng trên nhiều tờ báo; năm 1939, ông xuất bản tập thơ đầu tiên Huế đẹp và thơ.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, ông tham gia kháng chiến, công tác tại Ủy ban Kháng chiến Hành chính Đại Lộc và tỉnh Quảng Nam, sau đó làm Chánh văn phòng Ủy ban Kháng chiến Hành chính liên khu V.

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1959, ông công tác tại Viện Văn học, chuyên về dịch thuật.

Ông là một trong những cán bộ giảng dạy lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc; là dịch giả chính tập thơ Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh; tham gia dịch nhiều tập thơ chữ Hán.

Ông mất năm 1967 tại Hà Nội.

64. Đường Cao Hồng Lãnh:

          T12 có điểm đầu là 26; điểm cuối là 29; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 282.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử CAO HỒNG LÃNH

Nhà cách mạng

Cao Hồng Lãnh tức Phan Thêm, tên thật là Phan Hải Thâm, bí danh Cao Hồng Lãnh, sinh năm 1906 tại làng Minh Hương, nay là phường Minh Hương, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Năm 17 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng, tiếp cận với các tư tưởng yêu nước tiến bộ. Tháng 10 năm 1927, ông tham gia thành lập Chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Hội An và trực tiếp làm Bí thư.

Đầu năm 1941, ông tháp tùng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc về Pắc Bó (Cao Bằng). Tháng 8 năm 1945, ông tham dự Đại hội Quốc dân Tân Trào.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, ông được TW Đảng và Nhà nước phân công đảm trách nhiều nhiệm vụ quan trọng: Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam; Vụ trưởng Vụ Lãnh sự, Phó trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng. Ông được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương khác.

Ông mất năm 2008 tại Hà Nội, hưởng thọ 102 tuổi.

65. Đường Lê Anh Xuân:

          T13 có điểm đầu là 18; điểm cuối là 30; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 134.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ ANH XUÂN

Liệt sĩ, nhà thơ

Nhà thơ Lê Anh Xuân, tên thật là Ca Lê Hiến, sinh năm 1940 tại xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.

Năm 1954, ông theo gia đình tập kết ra Bắc. Ông tốt nghiệp và giảng dạy tại khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Cuối năm 1964, ông trở về miền Nam, công tác ở Tiểu ban Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, sau đó chuyển sang Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam. Trong thời gian này, ông bắt đầu sử dụng bút danh Lê Anh Xuân.

Bài thơ đầu tiên của ông ra mắt bạn đọc, bài Nhớ mưa quê hương với dòng cảm xúc thương nhớ da diết miền Nam, đã chiếm được cảm tình của độc giả và đoạt giải nhì trong cuộc thi thơ năm 1960 của tạp chí Văn nghệ. Các bài thơ nổi tiếng khác: Quê nội, Dáng đứng Việt Nam…

Ông hy sinh năm 1968, khi tham gia cuộc Tổng tấn công và Nổi dậy Xuân Mậu Thân; được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.

66. Đường Tôn Thất Tùng:

          T14 có điểm đầu là 21; điểm cuối là 35; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 274.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TÔN THẤT TÙNG

Giáo sư, bác sĩ; Anh hùng lao động

Giáo sư Tôn Thất Tùng sinh năm 1912 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tham gia kháng chiến; cùng với Giáo sư Hồ Đắc Di và Giáo sư Đặng Văn Ngữ xây dựng Trường Đại học Y khoa kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc.

Hòa bình lập lại, ông làm Giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn - Hà Nội (1955 - 1982); Chủ nhiệm bộ môn ngoại khoa Trường Đại học Y Dược Hà Nội; Thứ trưởng Bộ Y tế .

Ông là một trong những người sáng lập và xây dựng ngành ngoại khoa Việt Nam. Đã có trên 200 công trình nghiên cứu khoa học được công bố trong nước và ngoài nước, tập trung chủ yếu trong 3 lĩnh vực: phương pháp cắt gan qua nhu mô, gọi là phương pháp cắt gan khô (phương pháp Tôn Thất Tùng); các bệnh nhiễm khuẩn gan, mật nhiệt đới; hậu quả của chất độc hoá học dùng trong chiến tranh, đặc biệt là chất độc da cam. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

Ông là viện sĩ Viện Hàn lâm, hội viên danh dự Hội Ngoại khoa của nhiều nước.

Ông mất năm 1982 tại Hà Nội; được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động, tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác.

67. Đường Ngô Mây:

          T15 có điểm đầu là 23; điểm cuối là 42; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 399.0 m; chiều rộng 10.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGÔ MÂY

Chiến sĩ cảm tử quân; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Ngô Mây sinh năm 1922 tại xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

Năm 1945, ông tham gia cướp chính quyền tại huyện Phù Cát, sau đó tham gia du kích xã, chiến đấu chống quân Pháp xâm lược.

Tháng 4 năm 1947 ông nhập ngũ, chiến đấu trong Đại đội quyết tử của tiểu đoàn 50, trung đoàn 94, quân Khu 5. Ông xung phong nhận nhiệm vụ đánh bom cảm tử.

Trong một trận đánh tại An Khê (Gia Lai) ngày 24 tháng 10 năm 1947, ông đã dũng cảm ôm bom ba càng lao vào đánh xe cơ giới của quân Pháp, tiêu diệt 1 trung đội lính Âu Phi và đã anh dũng hy sinh.

Ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1955.

68. Đường Phan Đình Giót:

          T16 có điểm đầu là 24; điểm cuối là 37; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 274.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN ĐÌNH GIÓT

Liệt sĩ; người anh hùng đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ

Anh hùng Phan Đình Giót sinh nǎm 1920 tại làng Tam Quang, nay thuộc huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.

Nǎm 1950, ông xung phong đi bộ đội; đã tham gia nhiều chiến dịch lớn: Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.

Trong trận đánh tiêu diệt cứ điểm Him Lam - mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ (ngày 13/3/1954), ông đã anh dũng hy sinh khi lấy thân mình lấp lỗ châu mai đồn địch, góp phần làm nên thắng lợi của trận đánh.

Năm 1955, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

69. Đường Tô Vĩnh Diện:

          T17 có điểm đầu là 2; điểm cuối là 10; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 320.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TÔ VĨNH DIỆN

Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924 tại xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Ông vào bộ đội năm 1949, khi hy sinh là khẩu đội trưởng pháo phòng không thuộc đại đội 827, tiểu đoàn 394, trung đoàn 367.

Năm 1954, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông làm khẩu đội trưởng một đơn bị pháo cao xạ. Đường hành quân kéo pháo vô cùng hiểm trở, khó khăn, ông chỉ huy đưa pháo đến điểm tập kết an toàn. Sau đó được lệnh kéo pháo ra. Trên đường đi, do đêm tối, dốc cao, dây kéo bị đứt, khẩu pháo lao quá nhanh, ông lấy thân mình chèn bánh xe, chặn khẩu pháo không rơi xuống vực và đã anh dũng hy sinh.

Ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1956.

70. Đường Đào Tấn:

          T18 có điểm đầu là 4; điểm cuối là 11; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 592.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử ĐÀO TẤN

Đại thần triều Nguyễn; nhà soạn Tuồng

Đào Tấn sinh năm 1845 tại làng Vinh Thạnh, nay thuộc xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông vốn thuộc dòng dõi của danh nhân Đào Duy Từ thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên.

Năm 1867, ông đỗ Cử nhân; năm 1871 được triệu ra kinh đô Huế, sơ bổ Điển tịch, sung vào Hiệu thư ở Nội các. Năm 1874, ông đư­ợc bổ nhiệm Tri phủ Quảng Trạch (Quảng Bình), sau thăng Phủ doãn Thừa Thiên, rồi Tổng đốc An Tĩnh, Tổng đốc Nam Ngãi, Thượng thư bộ Hình, Thượng thư bộ Binh, Thượng thư bộ Công, quan hàm nhất phẩm....

Đào Tấn là một vị quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực dưới triều Nguyễn. Năm 1904, vì chống tên việt gian Nguyễn Thân, ông bị cách chức rồi lui về quê nhà ở ẩn. Ông mất năm 1907 tại quê nhà Bình Định.

 Ông là soạn giả của nhiều vở Tuồng nổi tiếng: Tam nữ đồ vương, Sơn Hậu, Đào Phi Phụng, Quan Công quá quan, Trầm Hương các...., trong đó nhiều vở ngày nay vẫn còn được biểu diễn.

71. Đường Lê Trí Viễn:

          T19 có điểm đầu là 7; điểm cuối là 8; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 200.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ TRÍ VIỄN

Giáo sư, Nhà giáo nhân dân

Giáo sư Lê Trí Viễn sinh năm 1918 tại xã Điện Hồng, huyện Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn), tỉnh Quảng Nam.

Ông tốt nghiệp trường phạm năm 1939, tham gia giảng dạy tại một số trường tại Quảng Nam trước khi về dạy ở trường Khải Định (Huế).

Năm 1946, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, công tác ở Ty tuyên truyền Quảng Bình, sau về dạy học ở Hà Tĩnh và Quảng Ngãi.

Năm 1955, ông tập kết ra Bắc, làm Hiệu trưởng trường Học sinh miền Nam; Chủ nhiệm khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội...

Sau năm 1975, ông tham gia giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.

Giáo sư Lê Trí Viễn là người có nhiều đóng góp cho lĩnh vực văn học Việt Nam, với hơn 40 công trình khoa học giá trị. Ông được phong hàm Giáo sư năm 1980; danh hiệu Nhà giáo nhân dân năm 1998.

Ông mất năm 2012.

72. Đường Nguyễn Văn Bổng:

          T20 có điểm đầu là 6; điểm cuối là 14; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 254.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN VĂN BỔNG

Nhà văn

Nhà văn Nguyễn Văn Bổng, bút danh Trần Hiếu Minh, sinh 1921 tại làng Bình Cư, nay thuộc xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

Sau khi đỗ tú tài, ông dạy học tại một số trường ở Đà Nẵng và Huế. Ông bắt đầu viết văn, đăng trên các báo đầu những năm 1940.

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và được giao làm công tác tuyên truyền ở thành phố Đà Nẵng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia và làm Chi hội phó, Ủy viên Đảng đoàn văn nghệ Liên khu V. Cũng tronng thời gian này, ông viết tác phẩm Con trâu nổi tiếng, tác phẩm được Giải thưởng Phạm Văn Đồng năm 1952 và Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1954 – 1955).

Cuối năm 1953, ông ra Việt Bắc dự Hội nghị tuyên huấn; tham gia cải cách ruộng đất tại Thái Nguyên.

Từ năm 1954, ông làm phóng viên Báo Nhân Dân, sau đó công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam; làm Phó Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.

Năm 1962, ông trở lại chiến trường miền Nam, làm Trưởng tiểu ban Văn nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam; Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam.

Sau năm 1975, ông làm Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ cho đến khi nghỉ hưu.

Các tác phẩm chính: Con trâu (tiểu thuyết); Rừng U Minh (tiểu thuyết); Đường đất nước (ký)....

Ông mất năm 2001 tại Hà Nội; được trao tặng Giải thưởng về văn học nghệ thuật năm 2000.

73. Đường Xuân Thủy:

          T21 có điểm đầu là 17; điểm cuối là 21; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 338.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử XUÂN THỦY

Nhà ngoại giao

Xuân Thuỷ, tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh năm 1912 tại làng Hòe Thị, nay là xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Ông tham gia cách mạng từ năm 1932; từng giữ nhiều trọng trách: Chủ nhiệm tờ Cứu Quốc (1944-1955); Thường trực Tổng bộ Việt Minh (1948 - 1950); Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1955 - 1982); Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1963-1965) .... Từ năm 1968 - 1973, làm Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris.

Từ năm 1968 đến 1982, ông làm Trưởng nhiều ban của Trung ương Đảng: Trưởng ban Đối ngoại, Trưởng ban Cán sự Đảng ngoài nước, Trưởng ban hoạt động quốc tế, Trưởng ban công tác miền Tây, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương; đồng thời giữ nhiều trọng trách trong Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Trưởng ban Thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Liên Việt, sau đổi thành Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam....

 Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VIII; làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội từ khoá II đến khoá VI; Phó Chủ tịch Quốc hội khoá VII; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước...

Ông mất năm 1985 tại Hà Nội; được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác.

74. Đường Võ Thị Sáu:

          T22 có điểm đầu là 12; điểm cuối là 14; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 138.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử VÕ THỊ SÁU

Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Võ Thị Sáu sinh năm 1935 tại xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Chị tham gia cách mạng từ năm 1948, khi mới 13 tuổi.

Năm 1949, chị tham gia đội Công an xung phong Đất Đỏ, làm nhiệm vụ giao liên và diệt ác, trừ gian; đã trực tiếp và cùng đồng đội tiêu diệt nhiều tên ác ôn khét tiếng.

Tháng 5 năm 1950, chị bị bắt và bị thực dân Pháp kết án tử hình. Ngày 23 tháng 1 năm 1952, bản án được thi hành.

Chị được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993.

75. Đường Huỳnh Thị Lựu:

          T23 có điểm đầu là 12; điểm cuối là 14; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 210.0 m; chiều rộng 10.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử HUỲNH THỊ LỰU

Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Huỳnh Thị Lựu sinh năm 1943 tại xã Cẩm Thanh, nay là phường Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Năm 15 tuổi, chị được giao nhiệm vụ giao liên. Năm 1965, được cử đi học lớp y tá, sau đó điều động về làm y tá Đại đội 2, Thị đội Hội An.

Là một y tá của Đại đội, Huỳnh Thị Lựu luôn nêu cao tinh thần gương mẫu, kề vai sát cánh, hết lòng chăm sóc đồng đội, ngoài nhiệm vụ cứu chữa thương bệnh binh, chị còn trực tiếp cầm súng chiến đấu tham gia nhiều trận đánh.

Ngày 23 tháng 2 năm 1969, chị hy sinh ngay trên quê hương Hội An; được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2010.

76. Đường Phùng Chí Kiên:

          T24 có điểm đầu là 10; điểm cuối là 11; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 137.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHÙNG CHÍ KIÊN

Nhà cách mạng; Liệt sĩ

Phùng Chí Kiên, tên thật là Nguyễn Vĩ, sinh năm 1901 tại làng Mĩ Quang Thượng, nay thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Năm 1926, ông sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện đầu tiên của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội; sau đó được cử đi học trường Quân sự Hoàng Phố. Tại đây, ông trực tiếp tham gia khởi nghĩa Quảng Châu (tháng 12 năm 1927) do Đảng cộng sản Trung Quốc tổ chức.

Năm 1931, ông sang Mátxcơva với dự định học tại Trường đại học Phương Đông, nhưng giữa đường bị phát xít Nhật bắt giam. Ra tù, ông tiếp tục sang Liên Xô học tập. Năm 1934, ông về Hồng Kông, cùng với Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tại Đại hội này, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, hoạt động ở nước ngoài.

Năm 1941 ông về nước, trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn. Tháng 7/1941, ông bị bắt tại châu Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn.

Ngày 22 tháng 8 năm 1941, thực dân Pháp đã thi hành án tử hình đối với Phùng Chí Kiên.

77. Đường Tô Ngọc Vân:

          T25 có điểm đầu là 8; điểm cuối là 18; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 283.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TÔ NGỌC VÂN

Hoạ sĩ, Liệt sĩ

Họa sĩ Tô Ngọc Vân sinh năm 1908 tại làng Xuân Cầu, nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, nhưng lớn lên tại Hà Nội.

Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1931; tham gia cộng tác với các báo, sau đó dạy học ở trường Trung học Phnôm-Pênh (Campuchia) từ năm 1935-1939 và dạy trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương từ năm 1939-1945.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tham gia kháng chiến, phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc. 

Ông được đánh giá là người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Những tác phẩm tiêu biểu của ông: Thiếu nữ bên hoa sen, Thiếu nữ bên hoa huệ, Hai thiếu nữ và em bé, Thiếu phụ ngồi bên tranh tam đa, Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ, Nghỉ đêm bên đường, Con trâu quả thực, Hai chiến sĩ… và nhiều ký họa được vẽ trong thời kỳ kháng chiến. Tên tuổi của Tô Ngọc Vân là niềm tự hào cho nền Mỹ thuật Việt Nam.

Ông hy sinh ngày 17 tháng 6 năm 1954, khi đang trên đường công tác; được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

78. Đường Châu Văn Liêm:

          T26 có điểm đầu là 4; điểm cuối là 5; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 127.0 m; chiều rộng 11.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử CHÂU VĂN LIÊM

Nhà cách mạng

Châu Văn Liêm sinh năm 1902 tại xã Thới Thạnh, nay thuộc quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.  Năm 1924, sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Đông Dương, ông về dạy học ở Long Xuyên, Sa Đéc. Tại đây, ông đã thành lập nhiều tổ chức yêu nước trong giáo viên, học sinh.

Năm 1926, ông vận động đồng bào địa phương và học sinh bãi khóa và tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh. Cũng trong năm này, ông tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, được bầu vào Ban Thường vụ Kỳ bộ Nam Kỳ.

 Tháng 6 năm 1929, ông được cử làm đại biểu Kỳ bộ Nam Kỳ đi dự đại hội ở Hương Cảng; trở về nước với nhiệm vụ cải tổ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội để thành lập một tổ chức cách mạng mới là An Nam Cộng sản Đảng. Sau đó, ông cùng Nguyễn Thiệu được cử thay mặt An Nam Cộng sản Đảng dự hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm 1930.

Ngày 4 tháng 5 năm 1930 tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, ông đã lãnh đạo tổ chức cuộc mít-tinh lớn đòi giảm sưu thuế. Thực dân Pháp đàn áp và đã bắn chết Châu Văn Liêm.

79. Đường Đoàn Khuê:

          T27 có điểm đầu là 1; điểm cuối là 22; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 883.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử ĐOÀN KHUÊ

Đại tướng; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Đại tướng Đoàn Khuê sinh năm 1923 tại xã Triệu Lăng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Ông tham gia cách mạng từ năm 1939; năm 1940 bị Pháp bắt giam đày đi Ban Mê Thuột.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương (3/1945), ông tham gia thành lập Ủy ban lâm thời, Chủ nhiệm Việt Minh, Ủy viên quân sự tỉnh Quảng Bình. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông đảm nhiệm nhiều chức vụ: Chính ủy Sư đoàn 351, Tư lệnh Quân khu V....

Năm 1990, ông được phong hàm Đại tướng, giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương.

Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa VI đến khóa IX; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính trị các khóa VI, VII và VIII.

Ông mất năm 1998 tại Hà Nội; được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác.

80. Đường Lê Thiện Trị:

          T28 có điểm đầu là 7; điểm cuối là 9; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 127.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LÊ THIỆN TRỊ

Danh thần triều Nguyễn; Tiến sĩ khai khoa các tỉnh Nam Trung bộ

Lê Thiện Trị, còn gọi là Lê Thiện Chánh, Lê Thiện Minh, tự là Lý Tê, hiệu Phước Khê, sinh năm 1796 tại làng Long Phước, nay thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Ông đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ năm 1838, đời Minh Mạng và trở thành vị tiến sĩ khai khoa cho 6 tỉnh Nam Trung bộ, từ Quảng Nam đến Bình Thuận.

Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm việc ở Hàn lâm viện biên tu; sau thăng Tri phủ Thịnh Viễn; Án sát Hà Nội; Biện lý bộ Hộ. Năm 1847, làm Phó Biện lý bộ Hình, sau bổ làm Biện lý bộ Hình; được cử làm Giám khảo trường thi Gia Định.

Năm 1848, được bổ Bố chính Khánh Hòa; sau sung Phó Chánh chủ khảo trường thi Nghệ An...

Lê Thiện Trị nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, tính tình cương trực, nhưng con đường hoan lộ lại đầy trắc trở. Chỉ vì mắc lỗi mà bị mất hết chức tước, trở thành thứ dân. Ông trở về quê dạy học, sáng tác thơ văn.

Ông mất năm 1872 tại quê nhà.

81. Đường Thái Thị Bôi:

          T1 có điểm đầu là Đ3; điểm cuối là Đ50; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 809.0 m; chiều rộng 11.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử THÁI THỊ BÔI

Nhà cách mạng

Thái Thị Bôi sinh năm 1911 tại làng Nghi An, nay là xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Bà sớm giác ngộ cách mạng do ảnh hưởng tư tưởng yêu nước của người chú ruột là chí sĩ Thái Phiên.

Năm 1926, bà bị mật thám bắt giam vì đã tham gia bãi khóa, tổ chức lễ truy điệu Phan Châu Trinh.

Năm 1927, bà gia nhập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, được cử vào Ban Chấp hành Tỉnh bộ Quảng Nam cùng với Lê Văn Hiến (sau này hai người thành vợ chồng). Năm 1930, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Trong phong trào Mặt trận Dân chủ những năm 1936 – 1939, bà là thành viên trong Ủy ban đón tiếp đặc sứ Godart, phái viên của Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp được cử sang Đông Dương điều tra tình hình đời sống của người lao động.

Do bị bệnh, bà qua đời ngày 23/9/1938 tại Đà Nẵng.

82. Đường Phan Trọng Tuệ:

          T2 có điểm đầu là Đ18; điểm cuối là Đ51; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 451.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN TRỌNG TUỆ

Thiếu tướng QĐND Việt Nam; nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải; Tư lệnh đường Trường Sơn

Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ sinh năm 1917 tại xã Sài Sơn, nay thuộc huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.

Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1934. Từ năm 1939 đến năm 1940, ông làm Bí thư Tỉnh ủy Sơn TâyHà Đông; phụ trách Liên tỉnh Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 27 năm tù và đày đi Côn Đảo.

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ông trở về và đảm nhận chức vụ Chính ủy Quân khu 9 gồm 10 tỉnh miền Tây Nam Bộ. Từ năm 1948-1950, ông đảm nhiệm chức vụ Chính ủy Đặc khu Sài Gòn - Gia Định. Năm 1951, ông tiếp tục làm Tư lệnh kiêm Chính ủy phân khu miền Tây Nam Bộ cho đến ngày tập kết ra Bắc.

Năm 1955, ông được phong hàm Thiếu tướng và được chỉ định vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam; Phó Tổng Thanh tra quân đội; Thứ trưởng Bộ Công an; Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Lực lượng Công an vũ trang (Bộ đội Biên phòng).

Từ năm 1961, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Năm 1965 ông vào Trường Sơn làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 559. Năm 1974, ông làm Phó Thủ tướng Chính phủ.

Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa IIIVI; đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VI.

Ông mất năm 1991 tại thành phố Hồ Chí Minh; được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác.

83. Đường Nguyễn Huy Chương:

          T3 có điểm đầu là Đ2; điểm cuối là Đ23; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 265.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN HUY CHƯƠNG

Trung tướng QĐND Việt Nam

Trung tướng Nguyễn Huy Chương sinh năm 1926 tại xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Ông tham gia cách mạng từ đầu những năm 1940, trong Đoàn Thanh niên phản đế ở địa phương; được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1945.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông tham gia chiến đấu trên chiến trường Quảng Nam – Đà Nẵng và Khu V nói chung, trên những cương vị: Chính trị viên Đội biệt động huyện Quế Sơn (1947); Đội trưởng Đội vũ trang tuyên truyền 103, hoạt động tại vùng bắc Tây Nguyên; Chính trị viên tiểu đoàn đặc công 409 của Khu V; Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Ngãi (1965); Chính ủy các Sư đoàn 711 và Sư đoàn 2, bộ đội chủ lực của Khu V.

Sau năm 1975, ông làm Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng; Phó Tư lệnh chính trị kiêm Bí thư Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu V; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1986). Ông được phong hàm Trung tướng năm 1986.

Ông mất năm 2004 tại Đà Nẵng.

84. Đường Trần Tống:

          T4 có điểm đầu là Đ4; điểm cuối là Đ30; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 669.0 m; chiều rộng 11.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TRẦN TỐNG

Nhà cách mạng; nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng

Trần Tống sinh năm 1916 tại xã Đại Minh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

Ông tham gia phong trào Dân chủ những năm 1936 -1939, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1938. Năm 1939, ông bị Pháp bắt giam tại nhà lao Hội An.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, ông được bổ sung vào Ban cán sự mặt trận Quảng Nam – Đà Nẵng; làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng từ năm 1946 – 1948; Thường vụ Liên khu ủy Khu V năm 1949....Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I.

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và tham gia công tác, với những cương vị: Phó Giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc; Thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp....

Ông mất năm 1988 tại Đà Nẵng.

85. Đường Võ Văn Tần:

          T5 có điểm đầu là Đ9; điểm cuối là Đ8; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 233.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử VÕ VĂN TẦN

Nhà cách mạng; nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ;

 Võ Văn Tần sinh năm 1894 tại xã Đức Hòa, nay thuộc huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Ông tham gia cách mạng từ những năm hai mươi của thế kỷ XX; làm Bí thư đầu tiên của Huyện ủy Đức Hòa.

Trong các năm 1931 - 1932, ông lần lượt làm Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn và Bí thư Tỉnh ủy Gia Định; trực tiếp tổ chức cuộc đấu tranh của nông dân ở Đức Hoà ngày 4 tháng 6 năm 1930. Ông bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.

Từ năm 1937 - 1940, ông làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ. Tham gia lãnh đạo phong trào đấu tranh dân chủ những năm 1936 - 1939 tại Nam Kỳ.

Tháng 7 năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt và bị kết án tử hình.

Ngày  28 tháng 8 năm 1941, ông bị xử bắn tại Hóc Môn cùng với nhiều lãnh tụ khác của Đảng.

86. Đường Phan Hành Sơn:

          T6 có điểm đầu là Đ10; điểm cuối là Đ11; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 138.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHAN HÀNH SƠN

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Phan Hành Sơn sinh năm 1947 tại xã Hoà Quý, nay thuộc quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Ông nhập ngũ năm 1965. Trong chiến đấu, ông luôn thể hiện tinh thần dũng cảm, mưu trí, luôn luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Đặc biệt trong các trận đánh các căn cứ lớn, đánh sâu vào hang ổ bọn ác ôn ở Xuyên Phú (năm 1966), quận lỵ Vĩnh Điện, thị trấn Nam Phước (năm 1967), ông luôn nêu cao dũng khí tiến công, có lối đánh mưu trí linh hoạt, xông xáo, đánh áp đảo, đánh mãnh liệt, tiêu diệt những mục tiêu quan trọng, góp phần đưa các trận đánh đến thắng lợi.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, ông tham dự các trận đánh vào hang ổ, sào huyệt của địch ở Trung Lương, Cồn Dầu và Non Nước – là những căn cứ quan trọng được chúng bảo vệ chu đáo. Trong đợt này, hoà nhịp với phong trào lập công tập thể, Phan Hành Sơn góp phần với đơn vị lập công xuất sắc, riêng ông diệt 212 tên địch, trong đó có 64 tên Mỹ. Qua 4 năm chiến đấu, Phan Hành Sơn đã diệt 452 tên địch (143 tên Mỹ), bắn rơi 1 máy bay bằng súng bộ binh, phá huỷ 1 pháo 105 milimet, 1 kho đạn, 4 xe vận tải quân sự GMC, đánh sập 8 lô cốt, 4 dãy nhà, thu 7 súng.

Ông đã 28 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ (1 lần Dũng sĩ diệt máy bay, 7 lần Dũng sĩ diệt Mỹ, 20 lần Dũng sĩ quyết thắng). Ông được tặng thưởng 13 giấy khen, 13 bằng khen, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba.

Ngày 20 tháng 12 năm 1969, Phan Hành Sơn được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

87. Đường Trịnh Đình Thảo:

          T7 có điểm đầu là Đ13; điểm cuối là Đ16; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 208.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TRỊNH ĐÌNH THẢO

Luật sư, nhà hoạt động chính trị

Luật sư Trịnh Đình Thảo sinh năm 1901 tại quê ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội ngày nay.

Ông tốt nghiệp Cử nhân Văn chương, Tiến sĩ Luật khoa ở Pháp. Sau khi về nước, ông làm Luật sư tại tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Trong thời gian này, ông đã nhiều lần bào chữa, bênh vực những người yêu nước nên được đồng bào yêu mến, giới trí thức kính trọng.

Năm 1968, ông ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình Việt Nam. Từng giữ các chức vụ: Chủ tịch Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hòa bình Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Sau ngày đất nước thống nhất, ông là ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ông mất năm 1986 tại thành phố Hồ Chí Minh.

88. Đường Nguyễn Bá Phát:

          T8 có điểm đầu là Đ17; điểm cuối là Đ19; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 411.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN BÁ PHÁT

Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát sinh năm 1921 tại xã Trung Sơn, huyện Hòa Vang, nay thuộc quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Ông tham gia cách mạng từ năm 1944, trong lực lượng tự vệ bí mật. Năm 1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại địa phương và được cử làm ủy viên quân sự của UBND xã.

Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia nhiều trận đánh tại chiến trường Khu V, trên cương vị chỉ huy: Phó Chỉ huy quân sự mặt trận Quảng Nam – Đà Nẵng; Trung đoàn trưởng các Trung đoàn 96, 73, 126, 108 của Quân khu V; Tham mưu trưởng Quân khu V…

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được giao nhiều trọng trách trong quân đội: Sư đoàn phó Sư đoàn 308; Tư lệnh Quân chủng Hải quân kiêm Tư lệnh Quân khu Đông; Tư lệnh Hải quân tiền phương trong chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975....

Ông được phong hàm Thiếu tướng năm 1975 và là đại biểu Quốc hội từ khóa III đến khóa VI.

Ông mất năm 1993 tại quê nhà; được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2010.

89. Đường Phạm Huy Thông:

          T9 có điểm đầu là Đ21; điểm cuối là Đ20; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 291.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử PHẠM HUY THÔNG

Nhà giáo, nhà khoa học

Phạm Huy Thông sinh năm 1916 tại Hà Nội, quê gốc ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Năm 26 tuổi, ông lần lượt thi đỗ Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ Sử - Địa tại Pháp. Năm 31 tuổi, ông được phong Giáo sư, giữ chức Uỷ viên Hội đồng giáo dục tối cao của Pháp.

Ông là người đã giúp việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa khi đoàn tham dự Hội nghị Fontainebleau năm 1946. Năm 1952, ông phụ trách tổ chức Việt kiều hải ngoại. Cũng trong năm này ông bị trục xuất khỏi Pháp, đưa về quản thúc tại Sài Gòn.

Từ năm 1956 – 1966, ông làm Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội; sau đó làm Viện trưởng Viện khảo cổ (1967 – 1988); Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội và Nhân văn. Ông có nhiều đóng góp cho ngành Khảo cổ học Việt Nam, nhất là  trong thời gian làm Viện trưởng Viện khảo cổ. Ông là đại biểu Quốc hội các khóa II và III.

          Ông mất năm 1988 tại Hà Nội; được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.

90. Đường Tống Văn Sương:

          T10 có điểm đầu là Đ32; điểm cuối là Đ35; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 682.0 m; chiều rộng 15.0 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

-          Đề nghị đặt tên đường: Tống Văn Sương.

Tiểu sử TỐNG VĂN SƯƠNG

Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Anh hùng Tống Văn Sương sinh năm 1943 tại xã Cẩm Thanh, nay là phường Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Năm 1964, ông gia nhập đội du kích xã. Năm 1967, được điều về Đại đội 2 đặc công thị xã, giữ chức vụ Trung đội trưởng. Ông đã tham gia chiến đấu nhiều trận, tiêu diệt nhiều tên địch.

Ngày 04 tháng 5 năm 1968 tại địa điểm Chùa Bà, nguỵ quyền Quảng Nam tổ chức lớp huấn luyện cho bọn tay sai ác ôn trong toàn tỉnh về việc xây dựng lực lượng “Phòng vệ dân sự” và kế hoạch “Bình định cấp tốc” đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tống Văn Sương và đồng đội (Đỗ Trọng Hường) xung phong nhận nhiệm vụ tiêu diệt bọn ác ôn đầu sỏ tại chùa Bà, trong lòng thị xã Hội An. Hai ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt hàng chục tên ác ôn, trong đó có tên phó chỉ huy bình định Quảng Nam.

Trên đường rút lui, bị địch vây chặt, hai ông tiếp tục chiến đấu và anh dũng hy sinh vào sáng 5 tháng 5 năm 1968.

Với thành tích chiến đấu và tấm gương hy sinh anh dũng, Tống Văn Sương đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

91. Đường Nam Cao:

          T1 có điểm đầu là G1; điểm cuối là G6; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 365.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NAM CAO

Liệt sĩ; Nhà văn hiện thực xuất sắc của Việt Nam thế kỷ XX.

Nhà văn Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí, sinh năm 1917 tại làng Đại Hoàng, nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Nam Cao sáng tác văn xuôi từ sớm, xuất hiện đều trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy. Năm 1941, cuốn sách đầu tay ký bút danh Nam Cao nhan đề Đôi lứa xứng đôi (sau đổi thành Chí Phèo) ra mắt bạn đọc đã nhanh chóng trở thành hiện tượng văn học đương thời.

Giai đoạn từ 1941-1944 là thời kỳ sáng tác có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao, với những tác phẩm nổi tiếng như Chí Phèo, Đời thừa, Sống mòn....

Từ 1943, Nam Cao tham gia phong trào Việt Minh và là một trong số những thành viên đầu tiên của Hội Văn hoá cứu quốc. Tháng 8 năm 1945, ông tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân. Năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam và Toà soạn Tạp chí Văn nghệ.

Tháng 10/1951, trên đường đi công tác ở Liên khu III, đoàn công tác của Nam Cao bị địch phục kích bắt được và xử bắn.

Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

92. Đường Tô Hiệu:

          T2 có điểm đầu là G13; điểm cuối là G15; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 133.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử TÔ HIỆU

Liệt sĩ, chiến sĩ cách mạng

Tô Hiệu sinh năm 1912 tại làng Xuân Cầu, nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Trong những năm 1925-1926 ông theo học trường Pháp - Việt tại thị xã Hải Dương. Do tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh nên bị đánh trượt trong kỳ thi tiểu học.

Năm 1928, ông vào Sài Gòn hoạt động trong tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Năm 1930, ông bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo 4 năm. Tại đây, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Cuối năm 1938, ông được Trung ương Đảng phân công phụ trách miền duyên hải Bắc Kỳ, trực tiếp làm Bí thư Ban cán sự Đảng Hải Phòng; chỉ đạo các cuộc đấu tranh của công nhân Hải Phòng trong năm 1939.

Tháng 12 năm 1939, ông bị bắt và bị đày lên Sơn La. Tại đây ông được bầu làm Bí thư Chi bộ Đảng, lãnh đạo tù nhân đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù.

Ngày 7 tháng 3 năm 1944, ông qua đời tại nhà ngục Sơn La do bị bệnh phổi.

93. Đường Thế Lữ:

          T3 có điểm đầu là G19; điểm cuối là G7; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 270.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử THẾ LỮ

Nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu

Thế Lữ, tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại Hà Nội.

Ông từng có thời gian học Cao đẳng Tiểu học ở Hải Phòng và Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội, nhưng sau đều bỏ học và dấn thân vào nghiệp thơ văn.

Năm 1932, ông tham gia và trở thành cây bút chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn, là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới những năm ba mươi của thế kỷ XX. Cũng trong thời gian này, ông tham gia thành lập một số nhóm/ban kịch ở Hải Phòng và Hà Nội, đồng thời sáng tác các vở kịch

Trong kháng chiến chống Pháp, ông lên Việt Bắc và tham gia Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam; chỉ đạo nghệ thuật của Đoàn sân khấu Việt Bắc. Ông là người có nhiều cống hiến cho ngành sân khấu Việt Nam hiện đại.

Các tác phẩm tiêu biểu của ông: Nhớ rừng, Tiếng sáo thiên thai (thơ); Dương Quý Phi, Cụ Đạo sư ông, Đề Thám (kịch); Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh (truyện)…

Ông mất năm 1989; được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2001.

94. Đường Nguyễn Công Hoan:

          T4 có điểm đầu là G12; điểm cuối là G17; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 123.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN CÔNG HOAN

Nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc thế kỷ XX

Nhà văn Nguyễn Công Hoan sinh năm 1903 tại làng Xuân Cầu, nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên. Năm 1926, ông tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, làm nghề dạy học.

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, ông làm Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó, ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, Giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo.

Ông là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, với tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (1920). Ông được coi là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Tác phẩm của ông xoay quanh chủ đề bi kịch của cá nhân, của gia đình tầng lớp tiểu tư sản thành thị và chủ đề về mâu thuẫn nông dân – địa chủ ở nông thôn…, với những tác phẩm tiêu biểu như: Bước đường cùng, Người ngựa ngựa người, Đống rác cũ, Tắt lửa lòng, Kép Tư bền...

Ông mất năm 1977 tại Hà Nội; được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

95. Đường Ngô Tất Tố:

          T5 có điểm đầu là G11; điểm cuối là G1; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 262.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGÔ TẤT TỐ

Nhà văn, nhà báo

Nhà văn Ngô Tất Tố sinh năm 1894 tại làng Lộc Hà, nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Từ năm 1926, ông ra Hà Nội bắt đầu làm báo, viết cho tờ An Nam tạp chí. Từ đó, ông cộng tác với nhiều tờ báo có tiếng đương thời, với nhiều bút danh khác nhau.

Trong thời gian từ năm 1936-1939, Ngô Tất Tố viết nhiều tác phẩm chỉ trích bọn quan lại tham nhũng, đè nén nhân dân. Tác phẩm nổi tiếng Tắt đèn ra đời trong thời gian này. Năm 1939, chính quyền thuộc địa ra lệnh cấm tác phẩm Tắt đèn, đồng thời bắt giam Ngô Tất Tố.

Tháng 8 năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại địa phương. Năm 1946, ông tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó lên Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông được bầu làm Chi hội trưởng Chi hội văn nghệ Việt Bắc; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam; tiếp tục tham gia viết báo.

Ông mất năm 1954 tại Yên Thế (Bắc Giang), để lại nhiều tác phẩm có giá trị: Tắt đèn, Lều chõng, Việc làng…. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

96. Đường Lưu Quang Vũ:

          T6 có điểm đầu là G18; điểm cuối là G2; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 191.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử LƯU QUANG VŨ

Nhà thơ, nhà viết kịch

Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ sinh năm 1948 tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ; quê ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; là con trai của nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Thuận.

Năm 1965 ông nhập ngũ, thuộc quân chủng Phòng không - Không quân. Từ năm 1970, sau khi xuất ngũ, ông tham gia viết báo và sáng tác văn chương.

Từ năm 1978, ông làm biên tập cho Tạp chí Sân khấu. Cũng trong năm này ông viết kịch bản đầu tay “Sống mãi tuổi 17”; tác phẩm được tặng Huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu toàn quốc 1980.

          Năm 1985, trong Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, Lưu Quang Vũ có 8 vở kịch tham dự đều đạt giải (6 Huy chương vàng và 2 Huy chương bạc).

Trong sự nghiệp sáng tác, Lưu Quang Vũ đã viết hơn 50 kịch bản sân khấu, phần lớn đã được dàn dựng; với các vở nổi tiếng: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ…

Ngày 29/8/1988, ông qua đời cùng vợ (nhà thơ Xuân Quỳnh) và con trong một tai nạn giao thông. Với những cống hiến xuất sắc trên lĩnh vực sân khấu, năm 2000 Lưu Quang Vũ đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

97. Đường Nguyễn Đình Thi:

          T7 có điểm đầu là G10; điểm cuối là G3; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 331.0 m; chiều rộng 7.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử NGUYỄN ĐÌNH THI

Nhà thơ, nhạc sĩ, nhà văn

Nguyễn Đình Thi sinh năm 1924 tại Luang Prabang (Lào); quê ở làng Vũ Thạch, nay thuộc quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Tháng 8 năm 1945, ông tham gia Quốc dân Đại hội tại Tân Trào (Tuyên Quang), được bầu vào Ủy ban Giải phóng dân tộc. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, ông làm Tổng thư kí Hội Văn hoá Cứu quốc; được bầu đại biểu Quốc hội khóa I và là đại biểu trẻ tuổi nhất.

Từ năm 1958 đến năm 1989, ông làm Tổng Thư kí Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1995, làm Chủ tịch Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

Ông là tác giả của nhiều thể loại văn, nhạc, kịch, với những tác phẩm nổi tiếng: Diệt phát xít, Người Hà Nội (nhạc); Xung kích, Mặt trận trên cao, Vỡ bờ (tiểu thuyết); Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan (kịch).

Nguyễn Đình Thi được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

Ông mất năm 2003 tại Hà Nội.

98. Đường Đỗ Nhuận:

          T8 có điểm đầu là G9; điểm cuối là G4; mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 223.0 m; chiều rộng 5.5 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

Tiểu sử ĐỖ NHUẬN

Nhạc sĩ

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận sinh năm 1922 tại xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, nhưng sống thời niên thiếu tại Hải Phòng.

Ông bắt đầu sự nghiệp âm nhạc bằng những bài ca yêu nước, như: Trưng Vương, ca cảnh Nguyễn Trãi - Phi Khanh….

Năm 1943, ông bị thực dân Pháp bắt và đày đi Sơn La. Ra tù, cảm hứng về rừng núi, về chiến khu và cách mạng đã giúp Đỗ Nhuận hoàn thành các ca khúc hừng hực khí thế cách mạng: Du kích ca, Nhớ chiến khu...

Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đỗ Nhuận viết nhiều tác phẩm nổi tiếng: Áo mùa đông, Ca ngợi Hồ Chủ tịch, Du kích sông Thao, Hành quân xa, Trên đồi Him Lam, Chiến thắng Điện Biên, Việt Nam quê hương tôi, Trông cây lại nhớ đến người...; ông là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Ô-pê-ra với vở Cô SaoNgười tạc tượng.

Đỗ Nhuận làm Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam và giữ chức vụ này trong thời gian từ 1957 đến 1983

Ông mất năm 1991 tại Hà Nội; được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

Danh mục đường được điều chỉnh giới hạn

          1. Đường Lê Quý Đôn:

          ĐT.608 có điểm đầu giáp đường An Dương Vương (Phường Thanh Hà – Tp Hội An); điểm cuối  đường Lê Quý Đôn (phường Vĩnh Điện – thị xã Điện Bàn); mặt đường bê tông nhựa; chiều dài 4600.0 m; chiều rộng 6.0 m; mốc lộ giới 33 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.

          2. Đường Trần Quý Cáp:

          ĐT.609 có điểm đầu là Km0 tại Phường Vĩnh Điện (Giao với QL1A cũ tại Km948+300); điểm cuối là ranh giới xã Điện Phước và Phường Điện An; mặt đường  bê tông nhựa; chiều dài 2600m/13000.0 m; chiều rộng 6.0 m; mốc lộ giới 27 m.

-          Hạ tầng kỹ thuật: hệ thống cấp, thoát nước, cáp ngầm, điện chiếu sáng.


[Trở về]

Liên kết website

Lượt truy cập

Tổng số lượt truy cập
Lượt trong năm